Kinh tế học trong một bài học. Chương 11: Ai được “bảo vệ” bởi thuế quan?

Tác giả: Henry Hazlitt.

Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.

Biên dịch: Phong trào Duy Tân.

Chỉ cần đọc lướt qua các chính sách kinh tế của chính phủ trên toàn thế giới cũng đủ khiến bất kỳ sinh viên kinh tế nghiêm túc nào phải buông xuôi trong tuyệt vọng. Người đó có thể sẽ hỏi, có thể còn ý nghĩa gì trong việc thảo luận những cải tiến và tiến bộ trong lý thuyết kinh tế, khi tư tưởng phổ biến và các chính sách thực tế của chính phủ, đặc biệt là trong mọi vấn đề liên quan đến quan hệ quốc tế, vẫn chưa theo kịp được Adam Smith? Bởi vì các chính sách thuế quan và thương mại hiện nay không chỉ tệ như ở thế kỷ XVII và XVIII, mà còn tệ hơn gấp bội. Những lý do thực sự đằng sau các loại thuế quan và rào cản thương mại đó vẫn giống như trước kia, và những lý do được ngụy tạo cũng vậy.

Trong một thế kỷ rưỡi kể từ khi cuốn sách Của Cải Của Các Dân Tộc được xuất bản, lập luận ủng hộ thương mại tự do đã được trình bày hàng ngàn lần, nhưng có lẽ chưa bao giờ được diễn đạt một cách trực tiếp, đơn giản và mạnh mẽ hơn như trong cuốn sách đó. Nhìn chung, Smith đã dựa vào một luận điểm cơ bản: “Ở bất kỳ quốc gia nào, lợi ích của đại đa số người dân luôn là và phải là mua bất cứ thứ gì họ muốn từ những người bán rẻ nhất.” Smith tiếp tục: “Lập luận này hiển nhiên đến mức có vẻ nực cười nếu phải mất công chứng minh nó; và lẽ ra nó cũng chẳng bao giờ có thể bị nghi ngờ nếu như sự ngụy biện vì tư lợi của các thương nhân và nhà sản xuất không làm đảo lộn lẽ thường của nhân loại.”

Từ một góc nhìn khác, thương mại tự do được coi là một khía cạnh của chuyên môn hóa lao động:

“Đó là châm ngôn của mọi người chủ gia đình khôn ngoan, không bao giờ cố làm tại nhà những gì mà việc làm ra nó tốn kém hơn việc đi mua. Người thợ may không cố tự đóng giày cho mình, mà đi mua giày của thợ đóng giày. Người thợ đóng giày không cố tự may quần áo cho mình, mà thuê thợ may. Người nông dân không cố tự làm cả hai việc đó, mà thuê những người thợ thủ công khác nhau. Tất cả họ đều thấy có lợi cho mình khi sử dụng toàn bộ công sức lao động của mình theo cách mà họ có lợi thế hơn so với những người xung quanh, và dùng một phần sản phẩm làm ra, hay nói cách khác, dùng số tiền thu được từ một phần sản phẩm đó, để mua bất cứ thứ gì khác mà họ cần. Điều gì là sự khôn ngoan trong cách quản lý của mỗi gia đình riêng lẻ thì khó có thể là sự ngu xuẩn trong việc cai quản của một quốc gia lớn.”

Nhưng điều gì đã khiến người ta cho rằng điều được xem là khôn ngoan trong cách quản lý của mỗi gia đình lại có thể là sự ngu xuẩn trong việc cai quản của một quốc gia lớn? Đó là cả một mạng lưới những ngụy biện mà loài người cho đến nay vẫn chưa thể thoát ra được. Và đứng đầu trong số đó chính là ngụy biện trung tâm mà cuốn sách này đề cập đến. Đó là việc chỉ xét đến những tác động tức thời của thuế quan đối với một số nhóm đặc thù và bỏ qua việc xem xét những tác động lâu dài của nó đối với toàn thể cộng đồng.

2.

Một nhà sản xuất áo len tại Mỹ đến Quốc hội hoặc Bộ Ngoại giao và nói với ủy ban hoặc các quan chức liên quan rằng việc dỡ bỏ hoặc giảm thuế đối với áo len của Anh sẽ là một thảm họa quốc gia. Hiện ông đang bán áo len của mình với giá 15 đô la một chiếc, nhưng các nhà sản xuất Anh có thể bán tại Mỹ những chiếc áo len cùng chất lượng với giá 10 đô la. Do đó, cần phải đánh thuế 5 đô la để ông duy trì hoạt động kinh doanh. Tất nhiên, ông ta không nghĩ cho bản thân mình, mà là nghĩ đến hàng nghìn nam nữ công nhân mà ông đang thuê, cũng như những người có việc làm nhờ vào chi tiêu của họ. Nếu họ bị mất việc, tức là sẽ tạo ra tình trạng thất nghiệp và sức mua suy giảm, điều này sẽ lan rộng thành những vòng ảnh hưởng ngày càng lớn. Và nếu ông ta có thể chứng minh rằng mình thực sự sẽ bị buộc phải phá sản nếu thuế quan bị dỡ bỏ hoặc cắt giảm, thì lập luận phản đối hành động đó của ông sẽ được Quốc hội xem là thuyết phục.

Nhưng ngụy biện này xuất phát từ việc chỉ nhìn vào nhà sản xuất này và những công nhân của ông ta, hoặc chỉ xét đến ngành công nghiệp áo len ở Mỹ. Nó xuất phát từ việc chỉ chú ý đến những hệ quả có thể nhìn thấy ngay lập tức, và bỏ qua những hệ quả không nhìn thấy được vì chúng bị ngăn không cho xuất hiện.

Những người vận động hành lang ủng hộ bảo hộ thuế quan liên tục đưa ra những lập luận không đúng với sự thật. Nhưng chúng ta hãy giả sử rằng trong trường hợp này, các dữ kiện hoàn toàn đúng như nhà sản xuất áo len đã trình bày. Giả sử rằng mức thuế 5 đô la cho mỗi chiếc áo len là cần thiết để ông ta có thể tiếp tục kinh doanh và tạo ra việc làm trong ngành sản xuất áo len cho công nhân của mình.

Chúng ta đã cố ý chọn ví dụ bất lợi nhất về việc gỡ bỏ thuế quan. Đây không phải là lập luận về việc áp dụng thuế quan mới để tạo ra một ngành công nghiệp mới, mà là lập luận về việc duy trì một loại thuế quan đã tạo ra một ngành công nghiệp, và giờ không thể bãi bỏ mà không gây tổn hại đến ai đó.

Thuế quan bị bãi bỏ; nhà sản xuất phá sản; một nghìn công nhân bị sa thải; những thương nhân cụ thể mà họ bảo trợ cũng bị tổn hại. Đây là kết quả tức thời có thể nhìn thấy. Nhưng cũng có những kết quả, tuy khó nhận ra hơn nhiều, không kém phần trực tiếp và thực tế. Giờ đây, những chiếc áo len từng có giá 15 đô la một chiếc có thể được mua với giá 10 đô la. Người tiêu dùng hiện có thể mua được loại áo len cùng chất lượng với giá rẻ hơn, hoặc mua một chiếc áo tốt hơn nhiều với cùng số tiền đó. Nếu họ mua một chiếc áo len có cùng chất lượng, họ không chỉ có được chiếc áo len, mà còn dư lại 5 đô la, số tiền mà trước đây họ không có, để mua thứ khác. Khi họ trả 10 đô la cho chiếc áo len nhập khẩu, họ góp phần tạo việc làm – như nhà sản xuất người Mỹ đã dự đoán – cho ngành sản xuất áo len ở Anh. Với 5 đô dư ra, họ góp phần tạo việc làm cho nhiều ngành công nghiệp khác ở Hoa Kỳ.

Nhưng kết quả không dừng lại ở đó. Bằng cách mua áo len của Anh, họ cung cấp cho người Anh đô la để mua hàng hóa Mỹ. Trên thực tế (nếu tôi được phép bỏ qua những phức tạp như trao đổi đa phương, cho vay, tín dụng, luân chuyển vàng, v.v. – vốn không làm thay đổi kết quả cuối cùng), đây là cách duy nhất mà người Anh cuối cùng có thể sử dụng được số đô la này. Vì chúng ta cho phép người Anh bán nhiều hơn cho chúng ta, nên giờ họ có khả năng mua nhiều hơn từ chúng ta. Thực tế, cuối cùng họ buộc phải mua nhiều hơn từ chúng ta nếu không muốn số dư đô la của họ mãi mãi bị bỏ không. Vì vậy, do chúng ta cho phép nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn từ Anh, chúng ta phải xuất khẩu nhiều hàng hóa Mỹ hơn. Và mặc dù hiện nay có ít người hơn làm việc trong ngành sản xuất áo len của Mỹ, nhưng lại có nhiều người được tuyển dụng hơn – và làm việc hiệu quả hơn nhiều – trong các ngành như sản xuất ô tô hoặc máy giặt ở Mỹ. Về tổng thể, việc làm ở Mỹ không giảm, nhưng sản lượng của cả Mỹ và Anh đều tăng lên. Lao động ở mỗi quốc gia được sử dụng đầy đủ hơn vào đúng những việc mà họ làm tốt nhất, thay vì bị buộc phải làm những việc mà họ làm kém hiệu quả hoặc không giỏi. Người tiêu dùng ở cả hai quốc gia đều được hưởng lợi. Họ có thể mua những gì họ muốn ở nơi họ có thể mua được với giá rẻ nhất. Người tiêu dùng Mỹ được cung cấp áo len tốt hơn, và người tiêu dùng Anh được cung cấp ô tô và máy giặt tốt hơn.

3

Bây giờ chúng ta hãy xem xét vấn đề theo hướng ngược lại, và xem xét tác động của việc áp thuế ngay từ đầu. Giả sử không có thuế quan nào đối với hàng dệt kim nước ngoài, rằng người Mỹ đã quen với việc mua áo len nước ngoài mà không phải chịu thuế, và sau đó có người đưa ra lập luận rằng chúng ta có thể tạo ra một ngành công nghiệp sản xuất áo len bằng cách áp thuế 5 đô la đối với áo len nhập khẩu.

Lập luận này sẽ không có gì sai về mặt logic nếu chỉ xét đến chừng đó. Chi phí áo len Anh đối với người tiêu dùng Mỹ có thể bị đẩy lên cao đến mức các nhà sản xuất Mỹ nhận thấy có lợi nhuận nếu tham gia vào ngành sản xuất áo len. Nhưng người tiêu dùng Mỹ sẽ buộc phải trợ cấp cho ngành công nghiệp này. Với mỗi chiếc áo len Mỹ mà họ mua, người tiêu dùng thực chất sẽ bị buộc phải trả một khoản thuế 5 đô la, khoản thuế này sẽ được thu bởi ngành sản xuất áo len mới qua mức giá cao hơn.

Sẽ có những người Mỹ được tuyển dụng vào ngành sản xuất áo len, những người trước đây chưa từng làm việc trong ngành này. Điều đó là đúng. Nhưng sẽ không có sự gia tăng ròng nào cho nền công nghiệp hay việc làm của cả nước. Bởi vì người tiêu dùng Mỹ phải trả thêm 5 đô la cho một chiếc áo len có cùng chất lượng, nên họ sẽ còn lại ít hơn đúng chừng đó để mua những thứ khác. Họ sẽ phải giảm chi tiêu 5 đô la ở một nơi khác. Để một ngành công nghiệp có thể phát triển hoặc hình thành, hàng trăm ngành công nghiệp khác sẽ phải thu hẹp. Để 20.000 người có thể được tuyển dụng  vào ngành sản xuất áo len, sẽ có ít hơn 20.000 người được tuyển dụng ở nơi khác.

Nhưng ngành công nghiệp mới thì lại dễ thấy. Số lượng công nhân của nó, vốn đầu tư, và giá trị thị trường tính bằng đô la của sản phẩm đều có thể dễ dàng thống kê. Người dân xung quanh có thể nhìn thấy các công nhân áo len ra vào nhà máy mỗi ngày. Kết quả là hữu hình và trực tiếp. Nhưng sự thu hẹp của hàng trăm ngành công nghiệp khác, sự mất đi 20.000 việc làm khác ở nơi khác, sẽ không dễ nhận thấy như vậy. Ngay cả nhà thống kê tài giỏi nhất cũng không thể biết chính xác mức độ tổn thất về việc làm ở các ngành khác là bao nhiêu – cụ thể là có bao nhiêu nam nữ công nhân đã bị sa thải khỏi từng ngành công nghiệp cụ thể, từng ngành công nghiệp cụ thể đã mất bao nhiêu doanh nghiệp – vì người tiêu dùng phải trả nhiều hơn cho những chiếc áo len. Bởi vì tổn thất được phân tán ra khắp tất cả các hoạt động sản xuất khác trong cả nước nên với mỗi ngành riêng lẻ, mức thiệt hại sẽ tương đối nhỏ. Không ai có thể biết chính xác từng người tiêu dùng sẽ chi tiêu 5 đô la dư ra đó như thế nào nếu họ được phép giữ lại số tiền đó. Do đó, phần lớn mọi người rất có thể sẽ bị đánh lừa bởi ảo giác rằng ngành công nghiệp mới này không gây ra tổn thất nào cho chúng ta.

4

Điều quan trọng cần lưu ý là mức thuế mới đối với áo len sẽ không làm tăng tiền lương của người Mỹ. Quả thật, nó sẽ cho phép người Mỹ làm việc trong ngành sản xuất áo len với mức lương xấp xỉ mức lương trung bình của Mỹ (đối với những công nhân có tay nghề tương đương), thay vì phải cạnh tranh trong ngành đó với mức lương của người Anh. Nhưng nhìn chung, mức thuế này sẽ không làm tăng tiền lương của người Mỹ; bởi như chúng ta đã thấy, sẽ không có sự gia tăng ròng nào về số lượng việc làm được cung cấp, cũng không có sự gia tăng ròng nào về nhu cầu hàng hóa, và cũng không có sự gia tăng năng suất lao động. Trên thực tế, năng suất lao động sẽ bị suy giảm do thuế quan.

Và điều này đưa chúng ta đến với tác động thực sự của một bức tường thuế quan. Vấn đề không chỉ là mọi lợi ích thấy được của nó đều bị bù trừ bởi những tổn thất ít rõ ràng hơn nhưng không kém phần thực tế. Thực chất, nó gây ra một tổn thất ròng cho cả quốc gia. Bởi vì trái với nhiều thế kỷ tuyên truyền mang động cơ lợi ích và sự nhầm lẫn không vụ lợi, thuế quan làm giảm mức lương của người Mỹ.

Hãy xem xét kỹ hơn điều này xảy ra như thế nào. Chúng ta đã thấy rằng số tiền mà người tiêu dùng phải trả thêm cho một mặt hàng được bảo hộ bằng thuế quan khiến họ còn lại ít hơn đúng chừng đó để mua các mặt hàng khác. Điều này không tạo ra lợi nhuận ròng cho toàn bộ nền công nghiệp. Nhưng do rào cản nhân tạo được dựng lên đối với hàng hóa nước ngoài, lao động, vốn và đất đai của Mỹ bị chuyển hướng từ những lĩnh vực mà chúng có thể hoạt động hiệu quả hơn sang những lĩnh vực kém hiệu quả hơn. Do đó, hệ quả của bức tường thuế quan là năng suất lao động trung bình và vốn của người Mỹ bị suy giảm.

Nếu chúng ta nhìn từ góc độ của người tiêu dùng, chúng ta sẽ thấy rằng họ có thể mua được ít hơn với số tiền của mình. Bởi vì họ phải trả nhiều hơn cho áo len và các hàng hóa được bảo hộ khác, họ sẽ mua được ít hơn tất cả những thứ còn lại. Do đó, sức mua chung của thu nhập của họ đã bị suy giảm. Tác động ròng của thuế quan dẫn đến giảm tiền lương hay làm tăng giá cả sẽ phụ thuộc vào các chính sách tiền tệ được áp dụng. Nhưng điều rõ ràng là thuế quan – dù có thể làm tăng lương so với mức lẽ ra đã có trong các ngành được bảo hộ – thì xét về tổng thể, khi tính đến tất cả các ngành nghề, sẽ làm giảm lương thực tế.

Chỉ những bộ óc đã bị làm hỏng bởi nhiều thế hệ tuyên truyền sai lệch mới có thể coi kết luận này là nghịch lý. Chúng ta có thể trông đợi kết quả nào khác từ một chính sách cố tình sử dụng các nguồn lực vốn và nhân lực của mình theo những cách kém hiệu quả hơn so với khả năng thực sự? Chúng ta có thể mong đợi kết quả nào khác từ việc cố tình dựng lên các rào cản nhân tạo đối với thương mại và vận tải?

Bởi vì việc dựng lên các hàng rào thuế quan có tác động tương tự như việc dựng lên những bức tường thực sự. Điều đáng chú ý là những người theo chủ nghĩa bảo hộ thường xuyên sử dụng ngôn ngữ của chiến tranh. Họ nói về việc “đẩy lùi cuộc xâm lược” của các sản phẩm nước ngoài. Và các biện pháp mà họ đề xuất trong lĩnh vực tài chính cũng giống như những biện pháp trên chiến trường. Những hàng rào thuế quan được dựng lên để đẩy lùi cuộc xâm lược này chẳng khác gì các bẫy xe tăng, chiến hào và hàng rào dây thép gai được tạo ra để đẩy lùi hoặc làm chậm nỗ lực xâm lược của quân đội nước ngoài.

Và cũng giống như một đội quân nước ngoài buộc phải sử dụng những phương tiện đắt đỏ hơn để vượt qua những trở ngại đó – xe tăng lớn hơn, máy dò mìn, đơn vị công binh để cắt dây thép gai, vượt suối và xây cầu – thì cũng cần phải phát triển các phương tiện vận chuyển đắt đỏ và hiệu quả hơn để vượt qua các rào cản thuế quan. Một mặt, chúng ta cố gắng giảm chi phí vận chuyển giữa Anh và Mỹ, hoặc giữa Canada và Hoa Kỳ, bằng cách phát triển các con tàu nhanh hơn và hiệu quả hơn, cải thiện đường sá và cầu cống, nâng cấp đầu máy xe lửa và xe tải. Nhưng mặt khác, chúng ta lại làm tiêu tan khoản đầu tư vào vận tải hiệu quả đó bằng một mức thuế quan khiến việc vận chuyển hàng hóa trở nên khó khăn hơn về mặt thương mại so với trước đây. Chúng ta làm cho việc vận chuyển áo len rẻ hơn một đô la, rồi lại tăng thuế quan thêm hai đô la để ngăn áo len được vận chuyển. Bằng cách giảm khối lượng hàng hóa có thể được vận chuyển một cách có lợi nhuận, chúng ta làm giảm giá trị của những khoản đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả vận tải.

5

Thuế quan đã được mô tả như một phương tiện mang lại lợi ích cho nhà sản xuất bằng cách gây thiệt hại cho người tiêu dùng. Theo một nghĩa nào đó, điều này là đúng. Những người ủng hộ thuế quan chỉ nghĩ đến lợi ích của các nhà sản xuất được hưởng lợi trực tiếp từ những mức thuế cụ thể đó. Họ quên mất lợi ích của người tiêu dùng, những người bị tổn hại trực tiếp do bị buộc phải trả các khoản thuế đó. Nhưng thật sai lầm khi xem vấn đề thuế quan như thể đó là một cuộc xung đột giữa lợi ích của toàn thể những người sản xuất với lợi ích của toàn thể người tiêu dùng. Đúng là thuế quan gây tổn hại đến tất cả người tiêu dùng nói chung. Nhưng không đúng khi nói rằng nó mang lại lợi ích cho tất cả các nhà sản xuất nói chung. Trái lại, như chúng ta vừa thấy, nó giúp các nhà sản xuất được bảo hộ bằng cách gây thiệt hại cho tất cả các nhà sản xuất Mỹ khác, và đặc biệt là những nhà sản xuất có thị trường xuất khẩu tiềm năng tương đối lớn.

Có lẽ chúng ta có thể làm rõ quan điểm cuối cùng này bằng một ví dụ phóng đại. Giả sử chúng ta dựng bức tường thuế quan của mình cao đến mức nó trở nên hoàn toàn cấm đoán và không có hàng nhập khẩu nào từ bên ngoài vào cả. Giả sử, hệ quả là giá áo len ở Mỹ chỉ tăng 5 đô la. Khi đó, người tiêu dùng Mỹ, vì phải trả thêm 5 đô la cho một chiếc áo len, sẽ chi tiêu trung bình ít hơn 5 xu ở mỗi ngành trong số 100 ngành công nghiệp khác của Mỹ. (Các con số này được chọn chỉ để minh họa cho một nguyên tắc: tất nhiên sẽ không có sự phân bổ tổn thất một cách đồng đều như vậy; hơn nữa, chính ngành công nghiệp áo len cũng chắc chắn sẽ bị tổn hại do việc bảo hộ các ngành công nghiệp khác. Nhưng những phức tạp này có thể tạm gác sang một bên.)

Bây giờ, vì các ngành công nghiệp nước ngoài sẽ thấy thị trường của họ tại Mỹ hoàn toàn bị cắt đứt, họ sẽ không nhận được đô la trao đổi, và do đó sẽ không thể mua bất kỳ hàng hóa nào của Mỹ. Kết quả là, các ngành công nghiệp của Mỹ sẽ chịu thiệt hại tương ứng với tỷ lệ phần trăm doanh số bán hàng trước đây của họ ở nước ngoài. Những ngành bị thiệt hại nặng nhất ngay từ đầu sẽ là những ngành như sản xuất bông thô, sản xuất đồng, sản xuất máy may, máy móc nông nghiệp, máy đánh chữ, v.v.

Một bức tường thuế quan cao hơn, dù không đến mức cấm đoán, sẽ tạo ra kết quả tương tự như vậy, nhưng chỉ là ở mức độ nhỏ hơn.

Như vậy, tác động của thuế quan là làm thay đổi cơ cấu sản xuất của nước Mỹ. Nó thay đổi số lượng ngành nghề, loại ngành nghề và quy mô tương đối giữa các ngành. Nó khiến các ngành mà chúng ta kém hiệu quả hơn lại trở nên lớn hơn, và các ngành mà chúng ta hiệu quả hơn lại bị thu hẹp. Do đó, tác động sau cùng của thuế quan là làm giảm hiệu quả của nước Mỹ, cũng như làm giảm hiệu quả ở các quốc gia mà lẽ ra chúng ta đã có thể giao thương nhiều hơn.

Về lâu dài, bất chấp hàng núi lập luận ủng hộ và phản đối, thuế quan không liên quan đến vấn đề việc làm. (Đúng là, các thay đổi đột ngột về thuế quan, dù tăng hay giảm, có thể tạo ra tình trạng thất nghiệp tạm thời, do chúng buộc cơ cấu sản xuất phải thay đổi tương ứng. Những thay đổi đột ngột như vậy thậm chí có thể gây ra suy thoái.) Nhưng thuế quan không phải là không liên quan đến vấn đề tiền lương. Về lâu dài, nó luôn làm giảm tiền lương thực tế vì nó làm giảm hiệu quả, sản xuất và của cải.

Do đó, tất cả những ngụy biện chính về thuế quan đều bắt nguồn từ ngụy biện trung tâm mà cuốn sách này đề cập đến. Chúng là kết quả của việc chỉ nhìn vào các tác động tức thời của một mức thuế quan duy nhất đối với một nhóm nhà sản xuất, và quên đi những ảnh hưởng lâu dài lên toàn bộ người tiêu dùng và các nhà sản xuất khác.

(Tôi nghe một số độc giả hỏi: “Tại sao không giải quyết vấn đề này bằng cách bảo hộ thuế quan cho tất cả các nhà sản xuất?” Nhưng ngụy biện ở đây là điều này không thể giúp các nhà sản xuất một cách đồng đều, và không thể giúp gì cho các nhà sản xuất trong nước vốn đã “bán chạy hơn” các nhà sản xuất nước ngoài: những nhà sản xuất hiệu quả này chắc chắn sẽ chịu thiệt hại vì sự chuyển hướng sức mua do thuế quan gây ra.)

6

Về vấn đề thuế quan, chúng ta phải ghi nhớ một điều cuối cùng cần phải thận trọng. Đó là sự thận trọng tương tự mà ta đã thấy cần thiết khi xem xét tác động của máy móc. Không thể phủ nhận rằng thuế quan có lợi – hoặc ít nhất là có thể có lợi – cho những nhóm lợi ích đặc biệt. Đúng là nó mang lại lợi ích cho họ bằng cách gây thiệt hại cho mọi người khác. Nhưng nó có lợi cho họ. Nếu chỉ một ngành công nghiệp duy nhất có thể được bảo hộ, trong khi chủ sở hữu và công nhân của ngành đó vẫn được hưởng lợi từ tự do thương mại trong mọi thứ khác mà họ mua, thì ngành công nghiệp đó sẽ được hưởng lợi, ngay cả trên cán cân tổng thể. Tuy nhiên, khi nỗ lực mở rộng các ân điển thuế quan, ngay cả những người trong các ngành công nghiệp được bảo hộ, cả với tư cách là nhà sản xuất lẫn người tiêu dùng, cũng bắt đầu phải chịu thiệt hại từ sự bảo hộ dành cho những người khác, và cuối cùng có thể thiệt hơn trên tổng thể so với khi không có ai, kể cả họ, được bảo hộ.

Nhưng chúng ta không nên phủ nhận, như những người ủng hộ thương mại tự do nhiệt thành thường làm, khả năng thuế quan mang lại lợi ích cho các nhóm đặc thù. Ví dụ, chúng ta không nên giả vờ rằng việc giảm thuế quan sẽ giúp ích cho tất cả mọi người và không gây tổn hại cho bất kỳ ai. Đúng là việc cắt giảm thuế sẽ mang lại lợi ích cho quốc gia về tổng thể. Nhưng sẽ có người bị tổn hại. Những nhóm trước đây được bảo hộ ở mức cao sẽ bị tổn hại. Trên thực tế, đó chính là một lý do vì sao ngay từ đầu không nên tạo ra những nhóm lợi ích được bảo hộ như vậy. Nhưng sự sáng suốt và thẳng thắn trong tư duy buộc chúng ta phải nhìn nhận và thừa nhận rằng một số ngành công nghiệp đã đúng khi họ nói rằng việc xóa bỏ thuế quan đối với sản phẩm của họ sẽ khiến họ phá sản và công nhân của họ (ít nhất là tạm thời) mất việc. Và nếu công nhân của họ đã phát triển các kỹ năng chuyên biệt, họ thậm chí có thể phải chịu thiệt hại vĩnh viễn, hoặc ít nhất là cho đến khi họ học được những kỹ năng tương đương. Khi xem xét tác động của thuế quan, cũng như khi xem xét tác động của máy móc, chúng ta nên cố gắng nhìn thấy tất cả các tác động chính, cả trong ngắn hạn và dài hạn, đối với tất cả các nhóm.

Như một phần bổ sung cho chương này, tôi xin nói thêm rằng lập luận của chương này không nhằm phản đối mọi loại thuế quan, bao gồm cả những loại thuế được thu chủ yếu để tạo nguồn thu ngân sách, hoặc để duy trì các ngành công nghiệp cần thiết cho chiến tranh; cũng không nhằm bác bỏ mọi lập luận ủng hộ thuế quan. Lập luận này chỉ nhằm phê phán ngụy biện cho rằng thuế quan, xét về tổng thể, có thể “tạo việc làm”, “tăng lương”, hay “bảo vệ mức sống của người Mỹ”. Nó không làm được bất cứ điều nào trong số đó; và xét về tiền lương cũng như mức sống, nó thậm chí còn gây ra điều ngược lại. Tuy nhiên, việc xem xét các loại thuế được áp dụng cho những mục đích khác sẽ đưa chúng ta ra ngoài phạm vi của chủ đề hiện tại.

Chúng ta cũng không cần bàn ở đây về tác động của hạn ngạch nhập khẩu, kiểm soát tỷ giá hối đoái, chủ nghĩa song phương và các biện pháp khác nhằm cắt giảm, chuyển hướng hoặc ngăn cản thương mại quốc tế. Nhìn chung, những biện pháp này gây ra các tác động tương tự như thuế quan cao hoặc cấm đoán, và thường là còn tệ hơn. Chúng đặt ra những vấn đề phức tạp hơn, nhưng kết quả sau cùng của chúng vẫn có thể được truy vết thông qua cùng kiểu lập luận mà chúng ta vừa áp dụng cho các rào cản thuế quan.


Đăng ngày

trong