Tác giả: Henry Hazlitt.
Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.
Tôi đã đề cập đến nhiều hình thức “tạo việc làm” (make-work) và “việc nhẹ lương cao” (feather-bed) do các công đoàn thúc đẩy. Những thực tiễn này, cùng với sự khoan dung của công chúng đối với chúng, đều bắt nguồn từ cùng một ngụy biện cơ bản — đó là nỗi sợ hãi đối với máy móc. Đó là niềm tin cho rằng một phương pháp hiệu quả hơn để thực hiện một công việc sẽ phá hủy việc làm, và hệ quả tất yếu của nó là: một phương pháp kém hiệu quả hơn lại tạo ra việc làm.
Liên quan đến ngụy biện này là niềm tin rằng chỉ có một lượng công việc cố định cần phải làm trong thế giới này, và nếu chúng ta không thể tăng thêm công việc đó bằng cách nghĩ ra những phương thức thực hiện phức tạp hơn, thì ít nhất chúng ta có thể nghĩ ra những phương tiện để phân phối công việc đó cho càng nhiều người càng tốt.
Sai lầm này nằm sau sự phân chia lao động quá mức chi tiết mà các công đoàn thường khăng khăng yêu cầu. Trong ngành xây dựng tại các thành phố lớn, sự phân chia này từ lâu đã gây ra nhiều tai tiếng. Thợ xây không được phép dùng đá để xây ống khói: đó là công việc chuyên biệt của thợ đá. Một thợ điện không được phép tháo một tấm ván để sửa một mối nối rồi lắp lại: đó là công việc chuyên biệt, dù đơn giản đến đâu, của thợ mộc. Một thợ sửa ống nước sẽ không tháo hoặc lắp lại một viên gạch để sửa một chỗ rò rỉ trong vòi hoa sen: đó là công việc của thợ ốp gạch.
Những cuộc đình công dữ dội vì “quyền hạn nghề nghiệp” diễn ra giữa các công đoàn nhằm giành độc quyền thực hiện một số loại công việc giáp ranh. Trong một tuyên bố gần đây do các công ty đường sắt Hoa Kỳ chuẩn bị cho Ủy ban Thủ tục Hành chính trực thuộc Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, các công ty đã đưa ra vô số ví dụ, trong đó Hội đồng Điều chỉnh Đường sắt Quốc gia đã quyết định rằng “mỗi thao tác riêng lẻ trên đường sắt, bất kể nhỏ đến mức nào, chẳng hạn như nói chuyện qua điện thoại hay đóng/mở một cái chốt, đều được xem là tài sản độc quyền của một nhóm nhân viên cụ thể, đến mức nếu một nhân viên thuộc nhóm khác, trong khi thực hiện nhiệm vụ thông thường của mình, lại thực hiện các thao tác đó, thì không những anh ta phải được trả thêm một ngày lương vì đã làm việc đó, mà đồng thời những thành viên đang thất nghiệp hoặc đang nghỉ việc tạm thời trong nhóm nhân viên được cho là có quyền thực hiện thao tác đó cũng phải được trả một ngày lương vì đã không được yêu cầu để thực hiện thao tác đó.
Đúng là một số ít người có thể hưởng lợi, bằng cách gây thiệt hại cho phần còn lại trong chúng ta, từ sự phân chia lao động vụn vặt và tùy tiện này – miễn là điều đó chỉ xảy ra trong trường hợp của họ. Nhưng những người ủng hộ điều này như một thông lệ chung lại không nhận ra rằng nó luôn làm tăng chi phí sản xuất; rằng xét về tổng thể, nó khiến ít công việc được thực hiện hơn và ít hàng hóa được sản xuất hơn. Chủ nhà bị buộc phải thuê hai người để làm công việc của một người thì đúng là đã tạo việc làm cho một người nữa. Nhưng anh ta cũng còn lại ít tiền hơn để chi tiêu cho thứ gì đó khác mà vốn có thể tạo việc làm cho một người khác. Vì việc sửa chỗ rò rỉ trong phòng tắm tốn gấp đôi chi phí lẽ ra phải trả, anh ta quyết định không mua chiếc áo len mới mà anh ta muốn.“Lao động” cũng chẳng khá hơn, bởi một ngày thuê một người thợ ốp gạch không cần thiết đồng nghĩa với một ngày mất việc của một người đan áo len hay vận hành máy móc. Tuy nhiên, chủ nhà còn thiệt hơn. Thay vì có cả một vòi hoa sen đã sửa và một chiếc áo len, anh ta chỉ có vòi hoa sen mà không có áo len. Và nếu ta tính chiếc áo len là một phần của cải quốc gia, thì quốc gia sẽ bị thiếu mất một chiếc áo len. Điều này tượng trưng cho hệ quả thực sự của nỗ lực tạo thêm công việc bằng cách phân chia lao động một cách tùy tiện.
Tuy nhiên, còn có những kế hoạch khác nhằm “phân chia công việc,” thường được đưa ra bởi người phát ngôn của công đoàn và các nhà lập pháp. Phổ biến nhất trong số này là đề xuất rút ngắn tuần làm việc, thường thông qua luật pháp. Niềm tin rằng điều này sẽ “phân chia công việc” và “tạo ra nhiều việc làm hơn” là một trong những lý do chính đằng sau việc đưa điều khoản phạt làm thêm giờ vào Luật Tiền lương và Giờ làm việc của Liên bang hiện hành. Luật trước đây tại các Tiểu bang, vốn cấm sử dụng phụ nữ hoặc trẻ vị thành niên làm việc quá 48 giờ một tuần chẳng hạn dựa trên quan điểm rằng làm việc nhiều giờ hơn sẽ gây hại cho sức khỏe và tinh thần. Một số luật còn dựa trên niềm tin rằng làm việc nhiều giờ hơn sẽ làm giảm hiệu quả lao động. Nhưng điều khoản trong luật Liên bang, quy định rằng người sử dụng lao động phải trả cho người lao động mức lương cao hơn 50% so với mức lương theo giờ thông thường cho tất cả số giờ làm việc vượt quá 40 giờ một tuần, không chủ yếu dựa trên niềm tin rằng làm việc 45 giờ một tuần, chẳng hạn, sẽ gây hại cho sức khỏe hay hiệu quả lao động. Điều khoản đó được đưa vào một phần với hy vọng tăng thu nhập hàng tuần cho người lao động, và một phần với hy vọng rằng — bằng cách ngăn cản người sử dụng lao động tuyển dụng bất kỳ ai thường xuyên làm việc quá 40 giờ một tuần — nó sẽ buộc người sử dụng lao động phải tuyển thêm lao động thay thế. Vào thời điểm viết bài này, có nhiều đề án nhằm “tránh tình trạng thất nghiệp” bằng cách ban hành tuần làm việc 30 giờ.
Vậy tác động thực tế của những kế hoạch như vậy là gì, dù được thực thi bởi các công đoàn riêng lẻ hay thông qua luật pháp? Trường hợp thứ nhất là giảm tuần làm việc tiêu chuẩn từ 40 giờ xuống còn 30 giờ mà không thay đổi mức lương theo giờ. Trường hợp thứ hai là cũng giảm tuần làm việc từ 40 giờ xuống còn 30 giờ, nhưng đồng thời tăng mức lương theo giờ đủ để đảm bảo người lao động hiện tại vẫn nhận được mức lương hàng tuần như cũ.
Hãy xét trường hợp đầu tiên. Chúng ta giả định rằng tuần làm việc bị cắt giảm từ 40 giờ xuống còn 30 giờ, mà không thay đổi mức lương theo giờ. Nếu vào thời điểm kế hoạch này được thực thi có tình trạng thất nghiệp đáng kể, thì chắc chắn kế hoạch này sẽ tạo ra thêm việc làm. Tuy nhiên, chúng ta không thể cho rằng nó sẽ tạo ra đủ số việc làm bổ sung để duy trì cùng một quỹ lương và cùng số giờ làm việc như trước, trừ khi ta đưa ra những giả định khó xảy ra, rằng trong mỗi ngành đều có cùng một tỷ lệ thất nghiệp, và rằng những người đàn ông và phụ nữ mới được tuyển dụng có mức hiệu quả trung bình trong công việc không thấp hơn so với những người đã được tuyển trước đó. Nhưng cứ cho là ta chấp nhận những giả định đó. Giả sử có đủ số lượng công nhân bổ sung phù hợp cho từng kỹ năng, và những công nhân mới không làm tăng chi phí sản xuất. Vậy kết quả sẽ là gì nếu tuần làm việc được giảm từ 40 giờ xuống còn 30 giờ (mà không tăng lương theo giờ)?
Dù sẽ có nhiều công nhân được tuyển dụng hơn, nhưng mỗi người sẽ làm việc ít giờ hơn và do đó, sẽ không có sự gia tăng thực sự nào về số giờ làm việc. Khó có khả năng có sự gia tăng đáng kể nào trong sản lượng. Tổng quỹ lương và “sức mua” cũng sẽ không tăng. Tất cả những gì sẽ xảy ra, ngay cả dưới những giả định thuận lợi nhất (mà hiếm khi trở thành hiện thực), là những công nhân được tuyển dụng trước đó sẽ trợ cấp, trên thực tế, cho những công nhân trước đó từng thất nghiệp. Bởi để những công nhân mới có thể nhận được ba phần tư số đô la hàng tuần mà những công nhân cũ từng nhận, thì chính những công nhân cũ giờ đây cũng chỉ còn nhận được ba phần tư số đô la hàng tuần so với trước kia. Đúng là những công nhân cũ hiện sẽ làm ít giờ hơn; nhưng việc mua thêm thời gian nhàn rỗi với cái giá đắt đỏ này có lẽ không phải là quyết định họ tự nguyện đưa ra vì lợi ích của chính mình: đó là một sự hy sinh nhằm mang lại việc làm cho người khác.
Các lãnh đạo công đoàn lao động, những người yêu cầu rút ngắn tuần làm việc để “phân chia công việc”, thường nhận ra điều này, và do đó họ đưa ra đề xuất theo một cách mà ai cũng tưởng rằng mình có thể vừa hưởng lợi ích, vừa không phải đánh đổi điều gì. Họ nói với chúng ta rằng hãy giảm tuần làm việc từ 40 giờ xuống còn 30 giờ để tạo ra nhiều việc làm hơn; nhưng hãy bù lại cho tuần làm việc ngắn hơn bằng cách tăng mức lương theo giờ thêm 33 %. Giả sử trước đây người lao động được trả lương trung bình 40 đô la một tuần cho 40 giờ làm việc; thì để họ vẫn có thể nhận được 40 đô la chỉ với 30 giờ làm việc, mức lương theo giờ phải được nâng lên trung bình là 1,33 đô la.
Hệ quả của một kế hoạch như vậy sẽ là gì? Hệ quả đầu tiên và rõ ràng nhất là làm tăng chi phí sản xuất. Nếu chúng ta giả định rằng những người lao động, khi trước đây làm việc 40 giờ, đã nhận được mức thu nhập thấp hơn so với chi phí sản xuất — và điều đó khiến giá cả và lợi nhuận có thể đạt được — thì họ có thể đã nhận được mức tăng lương theo giờ mà không cần phải giảm số giờ làm việc trong tuần. Nói cách khác, họ có thể đã làm việc với số giờ như cũ và nhận được tổng thu nhập hàng tuần cao hơn một phần ba, thay vì chỉ nhận được mức thu nhập theo tuần như trước với chế độ làm việc mới có 30 giờ cho mỗi tuần. Tuy nhiên, nếu dưới chế độ tuần làm việc 40 giờ, người lao động đã nhận được mức lương cao như mức chi phí sản xuất và giá cả là hợp lý (và chính tình trạng thất nghiệp mà họ đang cố gắng khắc phục có thể là dấu hiệu cho thấy họ đã nhận được nhiều hơn mức đó), thì việc tăng chi phí sản xuất do mức tăng 33% trong lương theo giờ sẽ vượt quá khả năng chịu đựng của tình trạng giá cả, sản xuất và chi phí hiện tại.
Do đó, hệ quả của việc tăng lương sẽ là tình trạng thất nghiệp trầm trọng hơn trước. Những doanh nghiệp kém hiệu quả nhất sẽ bị phá sản, và những người lao động kém hiệu quả nhất sẽ bị mất việc. Sản lượng sẽ sụt giảm trên toàn hệ thống. Chi phí sản xuất cao hơn và nguồn cung khan hiếm hơn sẽ có xu hướng đẩy giá cả lên, khiến người lao động mua được ít hàng hóa hơn với cùng một mức tiền lương; mặt khác, tình trạng thất nghiệp gia tăng sẽ làm giảm tổng cầu và do đó có xu hướng kéo giá xuống. Giá cả hàng hóa cuối cùng sẽ biến động như thế nào còn tùy thuộc vào chính sách tiền tệ được thực thi sau đó. Nhưng nếu theo đuổi chính sách lạm phát tiền tệ, tức là tạo điều kiện cho giá cả tăng để có thể trả mức lương theo giờ tăng lên, thì đây chỉ là một cách trá hình để cắt giảm mức lương thực tế; do đó, tính theo lượng hàng hóa họ có thể mua được, mức lương thực tế này sẽ quay trở về mức cũ. Khi đó, kết quả sẽ không khác gì trường hợp tuần làm việc bị rút ngắn mà không tăng mức lương theo giờ. Và chúng ta đã thảo luận về hệ quả của việc đó.
Tóm lại, các kế hoạch “phân chia công việc” dựa trên cùng một loại ảo tưởng mà chúng ta đã xem xét. Những người ủng hộ các kế hoạch như vậy chỉ nghĩ đến số việc làm mà chúng có thể mang lại cho một số cá nhân hoặc nhóm người cụ thể, mà không cân nhắc đến tác động tổng thể của chúng đối với toàn xã hội.
Các kế hoạch phân phối công việc cũng dựa trên giả định sai lầm mà chúng ta đã chỉ ra từ đầu, đó là có một lượng công việc cố định cần phải làm. Không có ngụy biện nào sai lầm hơn thế. Không có giới hạn cho lượng công việc cần phải làm miễn là bất kỳ nhu cầu hay mong muốn nào của con người mà công việc đó có thể thỏa mãn vẫn chưa được đáp ứng. Trong một nền kinh tế trao đổi hiện đại, công việc sẽ được thực hiện nhiều nhất khi giá cả, chi phí và lương có quan hệ tốt nhất với nhau. Chúng ta sẽ xem xét những mối quan hệ này sau.