Tác giả: Henry Hazlitt.
Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.
Chỉ đứng sau nỗi sợ hãi nhập khẩu một cách ám ảnh mà quốc gia nào cũng mắc phải, là một khát khao xuất khẩu cũng lệch lạc không kém. Xét về mặt logic, điều này quả thực hết sức mâu thuẫn. Về lâu dài, xuất khẩu và nhập khẩu phải bằng nhau (nếu xét cả hai theo nghĩa rộng nhất, bao gồm cả những khoản “vô hình” như chi tiêu của khách du lịch và phí vận chuyển đường biển). Xuất khẩu chi trả cho nhập khẩu, và ngược lại. Chúng ta xuất khẩu càng nhiều thì chúng ta phải nhập khẩu càng nhiều, nếu chúng ta muốn được thanh toán. Chúng ta nhập khẩu càng ít thì chúng ta có thể xuất khẩu càng ít. Nếu không có nhập khẩu thì chúng ta sẽ không thể xuất khẩu, vì người nước ngoài sẽ không có tiền để mua hàng hóa của chúng ta. Khi chúng ta quyết định cắt giảm nhập khẩu, thực tế là chúng ta cũng đang quyết định cắt giảm xuất khẩu. Khi chúng ta quyết định tăng xuất khẩu, thực tế là chúng ta cũng đang quyết định tăng nhập khẩu.
Lý do cho điều này rất đơn giản. Một nhà xuất khẩu người Mỹ bán hàng hóa của mình cho một nhà nhập khẩu người Anh và được thanh toán bằng bảng Anh. Nhưng anh ta không thể dùng bảng Anh để trả lương cho công nhân, mua quần áo cho vợ hay mua vé xem kịch. Với tất cả các nhu cầu đó, anh ta cần đô la Mỹ. Do đó, bảng Anh sẽ vô dụng đối với anh ta trừ khi anh ta tự mình dùng số tiền đó để mua hàng hóa của Anh, hoặc bán lại bảng Anh cho một nhà nhập khẩu người Mỹ nào đó muốn dùng chúng để mua hàng hóa của Anh. Dù là theo cách nào, giao dịch này cũng không thể hoàn tất cho đến khi lượng hàng xuất khẩu của Mỹ được thanh toán bằng một lượng hàng nhập khẩu tương đương.
Tình huống tương tự sẽ xảy ra nếu giao dịch được thực hiện bằng đô la Mỹ thay vì bảng Anh. Nhà nhập khẩu người Anh sẽ không thể trả tiền cho nhà xuất khẩu người Mỹ bằng đô la trừ khi trước đó có một nhà xuất khẩu người Anh khác đã tích lũy được tín dụng bằng đô la ở Mỹ thông qua một số giao dịch bán hàng trước đó cho chúng ta. Nói tóm lại, ngoại hối là một giao dịch thanh toán bù trừ trong đó, tại Mỹ, các khoản nợ bằng đô la của người nước ngoài được xóa bỏ thông qua các khoản tín dụng bằng đô la của họ. Tại Anh, các khoản nợ bằng bảng Anh của người nước ngoài được xóa bỏ thông qua các khoản tín dụng bằng bảng Anh của họ.
Không có lý do gì để đi sâu vào các chi tiết kỹ thuật của vấn đề này, bởi chúng có thể được tìm thấy trong bất kỳ giáo trình tốt nào về ngoại hối. Nhưng cần lưu ý rằng bản chất của vấn đề này không có gì là bí ẩn (dù nó thường bị bao phủ bởi vẻ huyền bí), và rằng nó không khác về bản chất so với những gì xảy ra trong thương mại trong nước. Mỗi người trong chúng ta cũng phải bán một thứ gì đó — dù với hầu hết chúng ta, đó là dịch vụ của chính chúng ta chứ không phải hàng hóa — để có được sức mua nhằm tiêu dùng. Thương mại trong nước cũng được thực hiện chủ yếu thông qua việc bù trừ séc và các khoản thanh toán với nhau tại các phòng thanh toán.
Đúng là theo chế độ bản vị vàng quốc tế, những chênh lệch trong cán cân xuất nhập khẩu đôi khi được giải quyết bằng cách vận chuyển vàng. Nhưng chúng cũng có thể được giải quyết bằng việc vận chuyển bông, thép, rượu whisky, nước hoa hay bất kỳ hàng hóa nào khác. Khác biệt chủ yếu nằm ở chỗ nhu cầu đối với vàng có thể mở rộng gần như vô hạn (một phần vì vàng được xem và chấp nhận như một loại “tiền” thanh toán quốc tế cuối cùng thay vì chỉ là một hàng hóa như bao hàng hóa khác), và các quốc gia không đặt ra những rào cản nhân tạo trong cách tiếp nhận vàng như họ làm trong cách tiếp nhận hầu hết mọi thứ khác. (Mặt khác, trong những năm gần đây, họ bắt đầu đặt ra nhiều rào cản hơn trong cách xuất khẩu vàng so với cách xuất khẩu bất kỳ thứ gì khác: nhưng đó lại là một câu chuyện khác.)
Giờ đây, những người có thể suy nghĩ thấu đáo và tỉnh táo khi bàn về thương mại trong nước lại có thể trở nên cực kỳ cảm tính và rối rắm khi đề cập đến thương mại nước ngoài. Trong lĩnh vực sau, họ có thể nghiêm túc ủng hộ hoặc chấp thuận những nguyên tắc mà họ sẽ cho là điên rồ nếu áp dụng cho kinh doanh trong nước. Một ví dụ điển hình là niềm tin rằng chính phủ nên cho các nước khác vay những khoản tiền lớn để tăng xuất khẩu của chúng ta, bất kể những khoản vay đó có khả năng được hoàn trả hay không.
Tất nhiên, công dân Mỹ nên được phép cho vay tiền của chính họ ra nước ngoài với rủi ro do họ tự chịu. Chính phủ không nên đặt ra bất kỳ rào cản tùy tiện nào đối với việc cho vay tư nhân sang các quốc gia đang trong quan hệ hòa bình với chúng ta. Vì lý do nhân đạo, chúng ta cũng nên rộng lòng giúp đỡ những dân tộc đang trong cơn hoạn nạn hoặc có nguy cơ chết đói. Nhưng chúng ta phải luôn biết rõ mình đang làm gì. Thật không khôn ngoan khi ban phát từ thiện cho người nước ngoài mà lại tưởng rằng mình đang thực hiện một giao dịch kinh doanh lý trí thuần túy vì lợi ích riêng của bản thân. Điều đó chỉ có thể dẫn đến hiểu lầm và mối quan hệ tồi tệ sau này.
Tuy nhiên, trong số các lập luận được đưa ra để ủng hộ việc cho nước khác vay các khoản nợ lớn, chắc chắn sẽ luôn có một ngụy biện chiếm vị trí nổi bật. Nó diễn ra như sau. Ngay cả khi một nửa (hoặc toàn bộ) các khoản vay mà chúng ta cấp cho các nước khác trở thành nợ xấu và không được hoàn trả, thì quốc gia này vẫn sẽ giàu có hơn nhờ đã cấp những khoản vay đó, vì chúng sẽ tạo ra động lực to lớn cho hoạt động xuất khẩu của chúng ta.
Rõ ràng là nếu các khoản vay mà chúng ta cấp cho nước ngoài nhằm giúp họ có thể mua hàng hóa của chúng ta không được hoàn trả, thì tức là chúng ta đang cho không hàng hóa. Một quốc gia không thể trở nên giàu có bằng cách đem cho không hàng hóa. Nó chỉ có thể khiến chính mình trở nên nghèo hơn.
Không ai nghi ngờ nguyên lý này khi nó được áp dụng trong lĩnh vực tư nhân. Nếu một công ty ô tô cho một người vay 1.000 đô la để mua một chiếc xe có giá đúng bằng số tiền đó, và khoản vay không được hoàn trả, thì công ty ô tô không thể được xem như giàu có hơn vì đã “bán” được chiếc xe. Họ chỉ đơn giản là mất đi số tiền mà họ đã bỏ ra để sản xuất chiếc xe. Nếu chi phí sản xuất chiếc xe là 900 đô la, và chỉ một nửa khoản vay được hoàn trả, thì công ty đã mất 900 đô la trừ đi 500 đô la, tức thiệt hại ròng là 400 đô la. Họ đã không bù đắp được khoản lỗ từ nợ xấu bằng doanh số thương mại.
Nếu nguyên lý này đơn giản đến vậy khi áp dụng cho một công ty tư nhân, thì tại sao nhiều người thông minh lại rối trí khi điều tương tự được áp dụng ở cấp độ quốc gia? Lý do là vì trong trường hợp quốc gia, người ta phải hình dung giao dịch qua một vài bước nữa. Quả thực, một nhóm có thể sẽ thu được lợi nhuận — trong khi phần còn lại trong chúng ta phải gánh chịu các tổn thất.
Chẳng hạn, đúng là những người tham gia độc quyền hoặc chủ yếu vào kinh doanh xuất khẩu có thể đạt được lợi nhuận ròng từ các khoản nợ xấu được thực hiện ở nước ngoài. Thiệt hại cho quốc gia trong giao dịch này chắc chắn sẽ xảy ra, nhưng nó có thể được phân bổ theo những cách khó nhận biết. Những người cho vay tư nhân sẽ chịu tổn thất trực tiếp. Các khoản lỗ từ hoạt động cho vay của chính phủ cuối cùng sẽ được bù đắp bằng việc tăng thuế áp dụng lên toàn dân. Nhưng cũng sẽ có nhiều tổn thất gián tiếp khác do tác động của những khoản lỗ trực tiếp này lên nền kinh tế.
Về lâu dài, hoạt động kinh doanh và việc làm ở Mỹ sẽ bị tổn hại, chứ không được hưởng lợi, do những khoản vay nước ngoài không được hoàn trả. Đối với mỗi đô la thêm mà người mua nước ngoài có để mua hàng hóa của Mỹ, thì người mua trong nước rốt cuộc sẽ bị mất đi một đô la. Do đó, các doanh nghiệp phụ thuộc vào thương mại trong nước sẽ bị thiệt hại về lâu dài tương đương với mức mà các doanh nghiệp xuất khẩu được hưởng lợi. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp xuất khẩu cũng có thể bị thiệt hại về tổng thể. Chẳng hạn, trước chiến tranh, các công ty ô tô của Mỹ đã bán khoảng 10% sản lượng của họ cho thị trường nước ngoài. Việc họ tăng gấp đôi doanh số bán hàng ở nước ngoài do các khoản nợ xấu nước ngoài sẽ không có lợi, nếu điều đó khiến họ mất đi, chẳng hạn, 20% doanh số bán hàng tại Mỹ do thuế bổ sung đánh vào người mua Mỹ để bù đắp cho các khoản vay nước ngoài không được hoàn trả.
Tôi xin nhắc lại, tất cả những điều này không có nghĩa là việc cho vay nước ngoài là điều không khôn ngoan, mà chỉ đơn giản là chúng ta không thể trở nên giàu có bằng cách thực hiện những khoản cho vay tồi.
Vì những lý do tương tự cũng cho thấy rằng việc tạo ra kích thích giả tạo cho hoạt động xuất khẩu bằng cách cho vay xấu hoặc tặng không tiền cho các nước khác là ngu ngốc, nên việc tạo ra kích thích giả tạo cho hoạt động xuất khẩu thông qua các khoản trợ cấp xuất khẩu cũng ngu ngốc không kém. Thay vì lặp lại hầu hết các lập luận trước đó, tôi để bạn đọc tự suy luận tác động của trợ cấp xuất khẩu giống như cách tôi đã phân tích tác động của các khoản vay xấu. Trợ cấp xuất khẩu là một ví dụ rõ ràng của việc cho không người nước ngoài một thứ gì đó, bằng cách bán cho họ hàng hóa với giá thấp hơn chi phí chúng ta bỏ ra để sản xuất chúng. Đây là một trường hợp khác của việc cố làm giàu bằng cách đem cho không tài sản.
Các khoản vay xấu và trợ cấp xuất khẩu là những ví dụ bổ sung cho sai lầm khi chỉ nhìn vào tác động tức thời của một chính sách đối với các nhóm đặc biệt, và không đủ kiên nhẫn hoặc khôn ngoan để xem xét các tác động lâu dài của chính sách đó đối với toàn xã hội.