Tác giả: Eamonn Butler.
Dịch giả: Phạm Nguyên Trường. Hiệu đính: Nguyễn Đức Thành.
Chương 14. Tư tưởng của Trường phái Áo đương đại
Ảnh hưởng của Trường phái kinh tế học Áo gia tăng sau khi F. A. Hayek được trao Giải Nobel vào năm 1974. Các công trình nghiên cứu đáng tin cậy của các học giả như Ludwig Lachmann về lí thuyết về vốn và Israel Kirzner về tinh thần nghiệp chủ đã làm gia tăng hơn nữa ảnh hưởng của trường phái này.
Hiện nay có một số cơ sở, như Đại học George Mason ở Virginia, Đại học Loyola ở New Orleans và Đại học Auburn ở Alabama tích cực nghiên cứu và giảng dạy lí thuyết của Trường phái Áo. Tư tưởng của Trường phái Áo được các tổ chức tư vấn (think tank) và các viện nghiên cứu, như Viện Cato ở Washington DC, Quỹ Giáo dục Kinh tế (FEE) ở Irvington, New York, và Viện Ludwig von Mises ở Auburn, Alabama thúc đẩy. Một số người đoạt Giải Nobel về kinh tế, trong đó có James Buchanan, Douglass North, Elinor Ostrom và Gary Becker, một số nhân vật của Chính phủ như cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mĩ, Alan Greenspan và Nghị sĩ Ron Paul đều công nhận là nghiêng về Trường phái Áo. Nhà kinh tế học Trường phái Áo, Peter Klein, từng là chuyên gia kinh tế cao cấp trong Hội đồng cố vấn kinh tế của Tổng thống Mĩ.
Nhưng Trường phái kinh tế học Áo đơm hoa kết trái cả ở bên ngoài nước Mĩ. Ví dụ, có các trung tâm nghiên cứu lớn tại trường Universidad Francisco Marroquin ở Guatemala và Đại học Rey Juan Carlos ở Madrid. Có thể thấy các nhà kinh tế học Trường phái Áo trong các nhóm nghiên cứu, các thiết chế của chính phủ và các khoa trong các trường đại học trên toàn thế giới – kể cả ở Trung Quốc. Và năm 2010, Anh quốc đã bầu Steve Baker, làm thành viên đầu tiên của nhóm kinh tế học Áo vào nghị viện nước này.
Hiện nay, các nhà kinh tế học Trường phái Áo đang phát triển các lí thuyết độc đáo và những phương pháp tiếp cận sáng tạo trên một loạt chủ đề, trong đó có tinh thần khởi nghiệp, tiến trình thị trường, kinh doanh và các thiết chế của chính phủ, vốn, chu kì kinh doanh, hoạt động ngân hàng, lí thuyết tiền tệ và chính sách kinh tế vĩ mô, và quá trình tiến hoá của trật tự xã hội tự phát và tự do. Thật vậy, chính vì Trường phái Áo đã chứng minh được rằng đấy là phương pháp tiếp cận đầy sáng tạo cho nên hiện nay tư tưởng của trường phái này mới đa dạng đến như thế.
Hai truyền thống
Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh điểm khác biệt chính yếu trong phổ quan điểm này. Một là, truyền thống Mises/Rothbard, gắn bó lâu dài với Viện Ludwig von Mises. Truyền thống này nhấn mạnh vai trò của diễn dịch và tính chủ quan của kinh tế học và khuôn khổ pháp lí và đạo đức của nền kinh tế tự do. Truyền thống khác là tư tưởng của Hayek, được biểu dương ở Đại học George Mason, chú tâm vào trật trật tự xã hội tự phát, tiến trình của thị trường và các thiết chế kinh doanh và chính phủ. Các học giả theo truyền thống này cũng sẵn sàng chấp nhận rằng các phương pháp khoa học chuẩn mực dùng để đo lường và thí nghiệm có thể làm phong phú thêm kiến thức của các nhà kinh tế học – thậm chí, ngay cả khi chấp nhận rằng việc sử dụng chúng cho việc tìm hiểu những con người có đầu óc độc lập sẽ không mang lại cái gì chắc chắn như khi sử dụng để nghiên cứu các vật thể tự nhiên. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo ở Anh cũng có xu hướng tán thành phương pháp tiếp cận này.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo không biết chắc họ đang ở gần kinh tế học dòng chính đến mức nào và phải gần tới mức nào. Truyền thống Mises/Rothbard cảm thấy hài lòng hơn khi tiếp tục đứng bên ngoài dòng chính, coi kinh tế học dòng chính về cơ bản là sai. Phía bên kia cũng có cảm giác như thế, các nhà kinh tế học dòng chính coi những phương pháp này của Trường phái Áo là phi khoa học, và bác bỏ những đề xuất của họ, coi đó là những ý kiến giáo điều và như thể từ trên trời rơi xuống.
Tuy nhiên, kinh tế học dòng chính luôn luôn vui vẻ hấp thụ các tư tưởng của Trường phái Áo mà nó coi là hữu ích, như đã từng diễn ra với phương pháp phân tích lợi ích biên và chi phí cơ hội và hiện đang diễn ra ở các khu vực khác. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo theo truyền thống của Đại học George Mason còn cảm thấy hài lòng hơn khi tranh luận với kinh tế học dòng chính, đã tìm cách tiếp tục quá trình hấp thụ này, thúc đẩy các nhà kinh tế học dòng chính đương đầu với sự đơn giản quá mức các đại lượng gộp (aggregates), mô hình và công thức, và bắt đầu xem xét vai trò của tinh thần nghiệp chủ, thời gian, thông tin phân tán và những khái niệm khác của Trường phái Áo.
Sư phóng khoáng của tư tưởng Trường phái Áo
Khả năng sinh sôi nảy nở của Trường phái Áo thể hiện ở sự đa dạng của những tư tưởng mà các nhà tư tưởng đương đại thuộc Trường phái Áo đang tiếp tục hoàn thiện, từ phương pháp điều tra kinh tế, quy trình và thiết chế của nền kinh tế tự do, đến chính sách kinh tế vĩ mô.
Quá trình, không phải là bức ảnh chụp nhanh. Nhiều ý kiến hiện nay cho rằng hệ thống kinh tế là một quá trình liên tục, trái ngược với quan điểm “bức ảnh chụp nhanh” thịnh hành trong kinh tế học dòng chính. Trong bối cảnh như thế, Peter Boettke nghiên cứu quá trình tiến hoá hệ thống kinh tế, trong khi Tyler Cowen (một nhà phê bình có cảm tình của Trường phái Áo) giải thích cách thức thị trường làm biến đổi văn hóa và tiến hóa để cung cấp cho người dân những món hàng mà họ thực sự mong muốn. Peter Leeson chỉ ra trật tự xã hội tự phát và cơ cấu xã hội tư nhân phát triển như thế nào và xã hội này phát đạt vì đấy là kết quả của những lợi ích thiết thực mà xã hội cung cấp cho cộng đồng, ngay cả khi không có chính phủ hay (trong trường hợp các nhóm cướp biển) người ta cố tình né tránh chính phủ.
Kiến thức phân tán. Mario Rizzo, cùng với Gerald O’Driscoll, viết về tầm quan trọng của sự kiện là kiến thức về kinh tế nằm rải rác khắp nơi và không đầy đủ. George Shackle cũng nghiên cứu sự hiểu biết – và “không biết” – của các chủ thể kinh tế có ảnh hưởng như thế nào đối với các phương án lựa chọn của họ. Luồng tư tưởng này làm cho các nhà kinh tế học Trường phái Áo trở thành những người chỉ trích trực tiếp giả thuyết “kì vọng duy lí” của kinh tế học dòng chính (nói rằng các tác nhân kinh tế hành động một cách duy lí và các lỗi lầm của họ triệt tiêu lẫn nhau), sự kiện là con người được dẫn dắt bởi cách đánh giá và cảm xúc của mình, và mắc lỗi hệ thống vì thông tin mà họ nắm được là không đầy đủ. Gary Becker viết nhiều về sự phi lí trong kinh tế học. Rizzo và Glen Whitman đã phản ứng lại trước sự vươn lên của kinh tế học hành vi, bác bỏ cơ sở triết học của chính sách gia trưởng của chủ nghĩa tự do cá nhân.
Thời gian và phối hợp. Thời gian, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói, cũng quan trọng tương tự sự thiếu hiểu biết về những lựa chọn và kết quả trong kinh tế. Sự kiện là thời gian quyết định và thực thi các lựa chọn khác nhau là khác nhau, có nghĩa là các hành động của con người không phải bao giờ cũng khớp với nhau, đấy là “vấn đề phối hợp” mà O’Driscoll đã viết khá nhiều. Rizzo cũng đã viết về đề tài làm sao mà sở thích theo thời gian khác nhau có thể giải thích xu hướng tội phạm của một số người (hài lòng ngay, hậu quả xa vời).
Tinh thần doanh nghiệp và đổi mới. Trong thế giới thực, nơi mà kiến thức thì nằm rải ra khắp nơi và không đầy đủ – khác với các mô hình kinh tế đơn giản hơn của kinh tế học dòng chính – vai trò của doanh nhân trong việc phát hiện các khoảng trống và điều phối các nguồn lực để lấp đầy các khoảng trống đó là cực kì quan trọng. Israel Kirzner, Stephen Littlechild và Don Lavoie tập trung vào vấn đề này và về cách thức các doanh nhân nắm bắt cơ hội lợi nhuận. Peter Klein và Nicolai Foss nhấn mạnh vai trò phán đoán của doanh nhân, trong khi Jesus Huerta De Soto nghiên cứu tính sáng tạo mà các doanh nhân mang đến cho tiến trình thị trường.
Kinh tế vĩ mô. Mặc dù kinh tế học Trường phái Áo bắt nguồn từ đánh giá và hành động của các cá nhân, nhiều nhà kinh tế học Trường phái Áo đương đại sẵn sàng thảo luận lí thuyết và chính sách kinh tế vĩ mô. Phần lớn đóng góp của họ là chỉ ra cách thức mà các ”“đại lượng gộp” của kinh tế học dòng chính gom các sự vật hiện tượng khác nhau về một mối. Ví dụ, Lachmann viết rất nhiều về tính đa dạng của vốn và cơ cấu vốn, chứ không chỉ lượng tiền, có vai trò quan trọng đến mức nào.
Chu kì kinh doanh. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, nhiều người đã chú ý tới lí thuyết của Trường phái Áo về chu kì kinh doanh. Cả Lachmann lẫn Sudha Shenoy, trái ngược với tâm trạng của thời đại mình, đã chỉ ra những nguy hiểm của sự bùng nổ do lạm phát và các khoản đầu tư sai và nạn thất nghiệp mà chúng tạo ra. De Soto, Roger Garrison và một số người khác mô tả kĩ lưỡng quá trình phát triển của chu kì kinh doanh do tín dụng tạo ra. (Nhưng nhiều nhà kinh tế học dòng chính vẫn chưa bị thuyết phục: Scott Sumner và Brad DeLong đã khẳng định, như Milton Friedman đã làm trước đó, rằng mở rộng tín dụng và các khoản đầu tư sai lầm thực ra là rất nhỏ, không thể ủng hộ cho quan điểm của Trường phái Áo về những sự kiện diễn ra sau đó).
Trên mặt trận này, Steve Horwitz nghiên cứu về giá phải trả của lạm phát, sự mất cân bằng về tiền và sự phối hợp kinh tế vĩ mô từ quan điểm của Trường phái Áo, trong khi George Selgin đề xuất luật về tiền (“định mức năng suất”) tập trung vào tăng trưởng ổn định chứ không phải là mục tiêu của lạm phát. Nhưng nhiều nhà kinh tế học Trường phái Áo ủng hộ việc quay trở lại một loại tiền tệ bản vị hàng hóa, ví dụ như vàng.
Ngân hàng tự do. Nhưng, một số người khác gợi ý rằng các chính phủ quốc gia nên nới lỏng hoàn toàn sự độc quyền về tiền. Trường phái “ngân hàng tự do” có ảnh hưởng này được Lawrence White, George Selgin, Kevin Dowd và những người khác dẫn dắt, khẳng định rằng các ngân hàng tư nhân nên phát hành đồng tiền của mình, người dân có thể chọn lựa – đây là động lực mạnh mẽ để cho các ngân hàng giữ cho công việc kinh doanh của họ có tính sáng tạo, nhưng vẫn vững chắc. Họ nói, lợi ích của ngân hàng tự do cũng tương tự lợi ích của thương mại tự do và chính phủ can thiệp thì bao giờ cũng gây ra rắc rối.
Các công ti và chính phủ. Một luồng tư tưởng nữa thuộc Trường phái Áo đang phát triển mạnh là tư duy về các thiết chế của nền kinh tế tự do. Ví dụ, Klein, Peter Lewin và George Shackle chỉ ra bản chất và tầm quan trọng của việc thiết kế, đa dạng hóa và sức sáng tạo của các công ti tư nhân. Lewin tập trung đặc biệt vào vai trò (thường là có hại) của quy định đối với hoạt động và cách tân của các công ti. Buchanan, với Trường phái Lựa chọn công trong kinh tế học, giải thích cách thức mà quá trình ban hành quyết định chính trị – cản trở các tiến trình thị trường – thường làm giảm kết quả mà lợi ích tư nhân mang lại, chứ không làm gia tăng lợi ích công cộng. Boettke chỉ ra cách thức mà các nhóm lợi ích đặc biệt và các nhóm tìm kiếm lợi nhuận đặc quyền đã bóp nghẹt nền kinh tế Liên Xô và quá trình chuyển hóa cần nền tảng là quyền sở hữu tư nhân đến mức nào.
Phát triển kinh tế. Mặc dù không tự coi mình là những người thuộc Trường phái Áo, nhưng William Easterly và Elinor Ostrom, Giải Nobel về kinh tế, đã sử dụng các tư tưởng của Trường phái Áo (tầm quan trọng của quyền sở hữu, thông tin phân tán và không đầy đủ, sự thất bại của kế hoạch hóa tập trung) để đưa ra các chính sách thúc đẩy một cách hiệu quả hơn quá trình phát triển kinh tế ở những nước nghèo.
Ảnh hưởng đối với tư duy dòng chính
Đây chỉ là danh sách chưa đầy đủ những khu vực mà làn sóng của Trường phái Áo hiện nay đang mang lại những tư duy mới mẻ. Tuy nhiên, nhiều nhà kinh tế học dòng chính có thể muốn gạt Trường phái Áo sang một bên, đơn giản vì sự đa dạng, độc đáo và sự phong phú của các ý tưởng của trường phái này đang cung cấp cho họ rất nhiều thứ để suy nghĩ.
Ngày nay, mọi thứ dường như không còn giống như cuộc đụng độ giữa những tư tưởng chính thống khác nhau cùng muốn giải thích các sự kiện và sự vật trên đời – như thuyết của Newton thay thế thuyết của Aristotle và đến lượt mình, lại bị thay thế bởi thuyết của Einstein – như thời của Mises. Thay vào đó, những lời phê phán của Trường phái Áo dường như là để buộc các nhà kinh tế học dòng chính suy nghĩ lại tất cả các thành tố của cơ cấu hiện có, cho tới tận nền tảng của kinh tế học và đưa ngày càng nhiều hơn tư tưởng của Trường phái Áo vào phương pháp tiếp cận của chính họ.
