Trường phái kinh tế học Áo – Lược khảo. Chương 13: Phê phán phương pháp tiếp cận của Trường phái Áo 

Tác giả: Eamonn Butler.

Dịch giả: Phạm Nguyên Trường. Hiệu đính: Nguyễn Đức Thành.

Chương 13. Phê phán phương pháp tiếp cận của Trường phái Áo 

•           Một số nhà phê bình khẳng định rằng phương pháp cá nhân phương pháp luận khắt khe của Trường phái Áo quá chật hẹp và có thể sử dụng các mô hình xã hội để giải thích và dự đoán hành vi của các nhóm người. 

•           Các nhà phê bình còn khẳng định rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo bôi bác các mô hình của mình, nói cho cùng, đấy chỉ là những khái niệm trừu tượng mà thôi. Họ cũng nhấn mạnh rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo quá hấp tấp khi cho rằng thất bại nào cũng là do sự can thiệp của chính phủ mà ra, và thị trường tự do tạo ra nạn độc quyền và một số vấn đề khác. 

•           Hầu hết những lời chỉ trích này đều tập trung vào phương pháp diễn dịch của Mises, mà các nhà kinh tế học dòng chính coi là phi khoa học. 

Chủ nghĩa cá nhân của Trường phái Áo 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo coi tất cả các hiện tượng kinh tế đều xuất phát từ mục đích và hành động của cá nhân, và bác bỏ ý tưởng cho rằng có các nhóm người, có tư duy hay mục đích, vượt ra ngoài những cá nhân tạo thành nhóm đó. Nhưng các nhà phê bình khẳng định rằng sự vật có thể lớn hơn tổng của các bộ phận của nó. Ví dụ, cơ thể con người không phải chỉ là một tập hợp các tế bào sống – trừ phi hiểu theo nghĩa quá tầm thường. Sự sắp xếp đầy phức tạp của những tế bào này làm nảy sinh hình thức sống khác hoàn toàn. 

Phải có những cách giải thích khác nhau thì mới hiểu được những hình thức sống to lớn hơn này. Khi bị swổ mũi, chúng ta tới gặp bác sĩ, nhưng chúng ta không muốn được nghe giải thích dài dòng, theo lối vi mô, về cách thức hoạt động của các tế bào mũi. Chúng ta muốn nghe lời giải thích ngắn gọn, theo lối vĩ mô, rằng đấy là do nhiễm trùng hay dị ứng, và thuốc kháng sinh hay thuốc chống dị ứng sẽ chữa khỏi bệnh. Để chữa bệnh sổ mũi, chúng ta không cần biết các tế bào hoạt động như thế nào, cũng như để dự đoán việc nở ra của chất khí, các nhà khoa học không cần biết các phân tử hoạt động ra sao. 

Có thể về mặt kĩ thuật, đúng là chỉ các cá nhân chọn. Nhưng nói thế là bỏ qua những lời giải thích vĩ mô hữu ích, như văn hóa, lịch sử, đạo đức và truyền thống – tất cả đều có thể cho chúng ta những hiểu biết thấu triệt về các sự kiện xã hội và kinh tế. Chúng ta có thể nhìn thấy hoa văn trên tấm thảm mà không biết màu sắc của từng sợi len. Tương tự, chúng ta cũng có thể nhận ra – và dự đoán được – quy luật trong các con số kinh tế vĩ mô, trong khi không biết gì về những cá nhân có liên quan. 

Phương pháp khoa học 

Hầu hết các nhà kinh tế học Trường phái Áo phản đối rằng chúng ta sẽ không bao giờ đoán đúng. Một người trên sao Hỏa có thể thấy các chuyến tàu đầy người cho hành khách xuống sân ga mỗi ngày – và tự tin mà đoán rằng tương lai cũng như thế. Nhưng chẳng bao lâu sau, một buổi sáng, đoàn tàu này không có hành khách nào. Người trên sao Hỏa không hiểu rằng đây không phải là hoạt động của đồng hồ. Đoàn tàu là để phục vụ các mục đích của con người và cái ngày đặc biệt đó trùng với kì nghỉ lễ, mọi người quyết định ở nhà. 

Tuy nhiên, các nhà khoa học có thể đáp lại rằng bất kì dự đoán nào cũng chỉ là dự đoán, và nếu quan sát nhiều hơn người trên sao Hỏa sẽ học được cách dự đoán các ngày lễ với độ chính xác hữu ích, thậm chí không cần biết mục đích của những ngày lễ đó. Đây là con đường tiến lên của khoa học và kiến thức. 

Đối với Mises, khoa học kinh tế là rút ra được những sự kiện từ bản chất của hành động có ý thức, mà ông nghĩ là không thể phủ nhận được (vì phủ nhận nó cũng là hành động có ý thức). Đây là quan điểm thịnh hành trong các nhà kinh tế học Trường phái Áo ở Mĩ, mặc dù những nhà kinh tế học khác thuộc Trường phái Áo cho rằng như thế là thổi phồng quá đáng. Ví dụ, Hayek chấp nhận rằng trong phần lớn môn kinh tế học là truy tìm hàm ý của những sự kiện đã biết, chúng ta vẫn cần phương pháp khoa học chuẩn mực trong quan sát và lập thuyết, đấy là nói nếu chúng ta phải giải thích những sự kiện bất ngờ. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo trung thành với tư tưởng của Hayek tin rằng ít hoặc chẳng có gì là hiển nhiên, và lí luận của con người có thể sai: Nói cho cùng, ngay cả những đệ tử của Mises cũng không đồng ý về nhiều thứ. 

Trường phái Áo và tư duy dòng chính 

Các nhà kinh tế học dòng chính khẳng định rằng Trường phái Áo chế nhạo phương pháp của mình và cường điệu sự khác biệt thực sự giữa họ với nhau. Các nhà kinh tế học dòng chính nhận thức được rằng thỏa dụng là chủ quan, không thể đo lường được và thị trường không bao giờ hoàn hảo: Mô hình của họ chỉ là biện pháp đơn giản hóa hữu ích và để tìm hiểu các khái niệm khó mà thôi. Và các nhà kinh tế học Trường phái Áo có ảo tưởng về thị trường không có bạo lực, trộm cắp hay thuế khóa – cũng là không thực tế, chẳng khác gì quan điểm mà họ chế nhạo. 

Đáp lại, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng các nhà kinh tế học dòng chính dường như đã tạo ra những sai lầm ngớ ngẩn. Mặc dù thỏa dụng hoàn toàn mang tính cá nhân, tương tự niềm vui hay sự xấu hổ, nhưng sách giáo khoa của các nhà kinh tế học dòng chính lại nói rằng có thể đo và cộng “các thỏa dụng” lại với nhau. Và sinh viên của họ cuối cùng sẽ tin rằng có thể làm cho thị trường trở nên hoàn hảo – niềm tin đó sẽ thúc đẩy chính phủ ban hành nhiều chính sách có hại – mặc dù, nếu hoàn hảo, thị trường sẽ không bao giờ hoạt động được, vì sẽ không còn động cơ nữa. Ngược lại, thị trường không bị ép buộc sẽ hoạt động tốt: Đấy là lí tưởng cần phải nhắm tới. 

Bản chất của hành vi 

Một số nhà phê bình, đặc biệt từ cánh Tả, tin rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo đã sai khi coi hành động có ý thức là nền tảng của khoa học kinh tế. Người ta có thể thích một cái gì đó hơn một cái gì đó khác, mà không thể diễn tả được sở thích đó, vì không có cái mà họ thực sự muốn. Hoặc họ bị áp lực phải chọn lựa theo một cách nào đó. Hay hành động của họ có thể không tự nguyện hoặc vô ý thức. Nhiều hoạt động kinh tế được hình thành bởi những rủi ro ngẫu nhiên hay khám phá may mắn. Và hầu hết công việc sản xuất là do những nhóm nhỏ các ông chủ dẫn dắt: Công chúng thường không hành động, mà chỉ đơn giản là phản ứng trước thực tiễn. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo đáp lại rằng nói thế là lẫn lộn kinh tế học với tâm lí học, với lịch sử và chính trị. Các nhà kinh tế học quan tâm tới cách thức mọi người thực sự lựa chọn giữa các thứ khác nhau – lựa chọn hàm ý hoạt động. Hành động vô thức là vấn đề của các nhà tâm lí học, chứ không phải kinh tế học. Người ta có thể mong muốn những thứ vượt quá khả năng của mình, nhưng đấy cũng là tâm lí học; nó chỉ trở thành kinh tế học khi người ta tiến hành lựa chọn thực sự. Rủi ro có thể ngăn chặn một số lựa chọn, còn khám phá thì lại mở ra những lựa chọn mới, nhưng các nhà kinh tế học chỉ quan tâm đến cách thức người ta lựa chọn: Chọn cái gì lại là vấn đề nằm nhiều hơn trong lĩnh vực của các nhà sử học và các nhà chính trị học. Đúng vậy, các doanh nhân dẫn dắt và chỉ đạo sản xuất; nhưng, ví dụ, vẫn là nông dân hay trở thành công nhân là do cá nhân quyết và quyết một cách có ý thức.

Thị trường và độc quyền 

Một số nhà phê bình khẳng định rằng các nhà kinh tế học Trường phái Áo quá hấp tấp khi cho rằng thất bại nào cũng do sự can thiệp của chính phủ mà ra. Ví dụ, thất bại của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô không nhất thiết là do tính bất khả thi của kế hoạch hóa xã hội chủ nghĩa: Những nguyên nhân khác có thể là nạn tham nhũng, thiếu động viên và hệ thống chính trị độc tài. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo đáp lại rằng, bản thân những vấn đề này chính là kết quả của hệ thống, trong đó các nguồn lực được phân bổ bởi trò chơi quyền lực của chính trị. 

Ngay cả khi bác bỏ kế hoạch hóa tập trung, nhiều người vẫn tin rằng nền kinh tế hỗn hợp sẽ hoạt động hiệu quả nhất: Ví dụ, trao đổi và cạnh tranh tự do (khuyến khích đổi mới và dịch vụ khách hàng), trong khuôn khổ của công tác phối hợp từ trung ương (tránh trùng lặp và đảm bảo rằng tất cả các lựa chọn đều được quan tâm). Nhưng các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng bất kì sự can thiệp nào của chính phủ đều chắc chắn sẽ đặt các giá trị của một giai tầng chính trị nhỏ bé lên trên các giá trị của toàn thể nhân dân, lên trên sự hợp tác tự do trong thương mại, và do đó làm giảm phúc lợi của con người. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo lên án các chính phủ vì đã tạo ra và duy trì các công ti độc quyền. Các nhà phê bình chấp nhận rằng các chính phủ lớn và tham nhũng có thể tạo ra những công ti độc quyền; các doanh nghiệp lớn và tham nhũng thì cũng thế. Và trên thực tế, họ nói, thị trường không được kiểm soát cũng đầy các công ti độc quyền: Thế kỉ XIX của thời đại tự do kinh doanh đã từng chứng kiến sự xuất hiện của những công ti độc quyền cực kì lớn. 

Đáp lại, các nhà kinh tế học Trường phái Áo khẳng định rằng thị trường cởi mở thì độc quyền không thể sống sót được hoặc là chỉ sống sót trong thời gian ngắn. Ngay cả các công ti độc quyền “tự nhiên” cũng dễ bị tổn thương: Ví dụ, công ti khai khoáng có thể hưởng độc quyền trong việc sản xuất một loại khoáng chất đặc biệt, nhưng, người ta sẽ tìm các phương án thay thế chứ không chịu trả giá độc quyền mãi. Và nếu độc quyền là do quy mô sản xuất thì các công ti lớn cũng luôn luôn bị các công ti lớn khác tấn công và thực ra là các công ti nhỏ hơn sẽ gặm nhấm dần thị trường của họ. Phải có những quy định của chính phủ nhằm bảo vệ các công ti độc quyền thì họ mới tránh được sự cạnh tranh của các công ti khác. 

Chu kì kinh doanh và chu kì tín dụng 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo khẳng định rằng nguồn gốc của các vụ bùng-vỡ là do sự bành trướng tín dụng do chính phủ tạo ra, dẫn đến những khoản đầu tư sai lầm và chỉ có một giải pháp là để cho ảnh hưởng của những sai lầm này tự lắng xuống. Nhưng, nhiều nhà kinh tế học tin rằng khi kinh doanh ngưng trệ, chính phủ phải khuyến khích các khoản đầu tư lớn hơn. Họ nghĩ rằng, làm như thế có thể có nguy cơ là đẩy giá lên, nhưng còn hơn là những xáo động quá lớn về kinh tế. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo cho rằng vấn đề này chẳng khác gì nghiện ma túy. Tung ra những khoản tín dụng mới tạo ra bùng nổ kinh tế, nhưng bùng nổ chỉ kéo dài khi tín dụng tiếp tục gia tăng. Nếu không có liều ngày càng lớn hơn, không còn những khoản tín dụng mới, thì những khoản đầu tư sai lầm theo sau những khoản tín dụng với lãi suất thấp sẽ phá sản. Trì hoãn chỉ làm xáo động cuối cùng trở thành lớn hơn mà thôi. 

Tiền và lạm phát 

Các nhà kinh tế học dòng chính cũng bất đồng với quan điểm của các nhà kinh tế học Trường phái Áo về bản vị vàng. Tiền hàng hóa (còn gọi là hoá tệ) như vàng sẽ tước đoạt quyền kiểm soát cung tiền ra khỏi tay chính phủ, và có lẽ hạn chế phần nào nguy cơ lạm phát. Nhưng hóa tệ không ngăn ngừa được những vụ bùng vỡ làm thiệt hại cho nền kinh tế. Ví dụ, Mĩ đã trải qua tám giai đoạn suy thoái trong khi sử dụng hóa tệ. Còn tiền giấy, nếu được quản lí một cách phù hợp, có thể được sử dụng để làm nhẹ bớt các vụ bùng-vỡ, và do đó, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo sợ rằng chính phủ sẽ tìm cách dùng tiền giấy để tạo ra sự bùng nổ số phiếu bầu mà họ nhận được để giành chiến thắng, phớt lờ những hiểm nguy vốn có và hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ sẽ đơn giản là làm gia tăng hiệu ứng này. Mặc dù hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ cho đến nay đã và đang hoạt động hiệu quả, theo nghĩa là các khoản tiền tiết kiệm được đưa vào sản xuất kinh doanh và tạo ra tăng trưởng kinh tế, nhưng nó cũng làm giảm giá trị của đồng tiền và tăng giá. Đến lượt mình, tiền mất giá trong khi hàng hoá tăng giá lại gây ra những quyết định đầu tư sai lầm, có hiệu quả kinh tế kém và mất mát. Tệ hơn nữa, như các sự kiện trong giai đoạn 2008-2009 đã cho thấy, nó khuếch đại một cách khủng khiếp chu kì bùng-vỡ. 

Kết luận 

Những lời chỉ trích Trường phái Áo tập trung chủ yếu vào phương pháp diễn dịch và chủ nghĩa cá nhân triệt để của Mises, Rothbard và các đệ tử của họ (phần lớn là người Mĩ). Tuy nhiên, vẫn còn một loạt các quan điểm nữa trong truyền thống Áo. Các nhà kinh tế học khác thuộc Trường phái Áo chấp nhận rằng tất cả các hành động của con người cuối cùng đều là các cá nhân thực hiện, nhưng những cách giải thích dựa trên các xu hướng văn hóa, kinh tế hay lịch sử chắc chắn sẽ giúp chúng ta hiểu biết thêm. Ví dụ, Hayek chấp nhận quan điểm cho rằng chúng ta có thể phát hiện được các mô thức trong đời sống xã hội và đời sống kinh tế, từ đó có thể đưa ra những dự đoán khoa học đáng tin, ngay cả khi chúng ta không hiểu chính xác những mô thức này xuất hiện như thế nào. 

Nhiều nhà kinh tế học Trường phái Áo còn tin rằng cần phải dùng những bằng chứng rõ ràng của cuộc đời thực để kiểm tra phương pháp diễn dịch, và rằng, nếu chúng ta bắt đầu từ ý tưởng về hành động không bị trộm cắp, gian lận, ép buộc và chính phủ làm cho ô uế thì chúng ta sẽ tiến tới những kết luận không thực tế. Chưa ở đâu và chưa bao giờ có thị trường hoàn toàn tự do, không bị kiểm soát: Thực tế là, như Hayek nói, thị trường thực sự cần luật lệ để hoạt động – luật lệ về tài sản và hợp đồng, ví dụ thế – tương tự lửa ở trong nhà cần bếp thì mới cháy lâu. 

Đối với các nhà kinh tế học Trường phái Áo, như Hayek, cùng với phương pháp diễn dịch, dường như không có lí do để bác bỏ bất kì phương pháp nào, cũng như bác bỏ bất kì sai lệch nào từ lí tưởng mang tính khái niệm thuần túy. Tốt nhất, hãy chỉ ra rằng, mặc cho tất cả các khiếm khuyết không thể tránh khỏi của nó, thị trường có nhiều ưu điểm hơn là khuyết điểm. Hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ và tiền giấy có thể không phải là lí tưởng: Nhưng lợi ích mà chúng mang lại có lớn hơn chi phí bỏ ra hay không? Đối với hầu hết mọi người, trong đó có các nhà kinh tế học Trường phái Áo, câu trả lời cho những câu hỏi như thế phải là bằng chứng và tranh luận, chứ không phải là logic có thể sai lầm của con người.