Tác giả: Eamonn Butler.
Dịch giả: Phạm Nguyên Trường. Hiệu đính: Nguyễn Đức Thành.
Chương 11. Hạn chế của chủ nghĩa xã hội trong kinh tế
• Mọi người tham gia trao đổi tự do, tự nguyện vì cả hai bên đều tự cho là nó cải thiện hoàn cảnh của mình. Chủ nghĩa xã hội, trong kinh tế có phần cản trở trao đổi tự do, do đó, làm giảm lợi ích mà nó tạo ra cho con người.
• Sản xuất là quá trình phức tạp. Sản xuất bao nhiêu cũng được và bằng vô số cách khác nhau. Không có kim chỉ nam là giá cả, không biết cái gì là khan hiếm và khan hiếm đến mức nào, những người xã hội chủ nghĩa không thể có biện pháp tính toán cái gì ở đầu vào và đầu ra là đáng giá.
• Trong chủ nghĩa xã hội, phương tiện sản xuất thường là sở hữu toàn dân và không bao giờ được mua hay bán, vì vậy mà không có giá – dẫn đến những tính toán sai lầm và lãng phí. Nếu không có sức cám dỗ của lợi nhuận, thì chẳng có gì có thể khuyến khích người ta cải tiến.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo coi thị trường là biện pháp phân bổ các nguồn lực một cách tự nhiên và hiệu quả – sử dụng tất cả các thông tin có liên quan mà ai cũng có thể tiếp cận được. Họ khẳng định rằng trao đổi tự do làm cho cả hai bên đều có lợi – nó phải làm như thế, vì, như Menger đã chỉ ra, không có người nào tự nguyện tham gia trao đổi nếu nghĩ rằng nó sẽ làm cho hoàn cảnh của họ xấu đi. Do đó, trao đổi cũng làm lợi cho người ta chẳng khác gì sản xuất – cái mà những người xã hội chủ nghĩa, quá chú ý vào sản xuất, thường bỏ qua.
Thị trường tự do, trong đó, trao đổi là tự nguyện, do đó, tối đa hóa giá trị cho con người. Bất cứ cái gì gây cản trở – buộc người ta giao dịch theo một cách nào đó hay ngăn cản, không để họ trao đổi tự nguyện – đều làm giảm giá trị do thương mại tạo ra. Tất nhiên, đây là cái mà các chính phủ thường tìm cách làm, bằng những quy định về loại hình kinh doanh được thực hiện và cấm tuyệt đối một số hình thức giao dịch, trên cơ sở “lợi ích công cộng”. Nhưng các nhà kinh tế học Trường pháo Áo nói rằng, đấy đơn giản chỉ là thay thế cho lợi ích công cộng đích thực – như được chỉ ra bởi sự kiện là tất cả những người tham gia buôn bán đều cho rằng hoàn cảnh của mình được cải thiện – bằng ý tưởng chính trị có sẵn về lợi ích công cộng mà thôi.
Vì vậy, chính trị và chính phủ không nên can thiệp vào các thị trường tự do. Có thể cần một số quy định của chính phủ để đảm bảo rằng thị trường là tự do thực sự và để đảm bảo rằng người dân không bị ép buộc tham gia giao dịch. Và có thể cần chính quyền để đảm bảo rằng người ta thực sự cung cấp hàng hóa và dịch vụ theo hợp đồng và thanh toán hoá đơn sau khi nhận hàng. Ngoài cái đó ra, sự can thiệp của nhà nước chỉ có hại – và một số nhà kinh tế học Trường phái Áo, ví dụ, Rothbard, cho rằng những người tham gia trên thương trường có thể lựa ra được những điều kiện cơ bản của thị trường mà không cần lực lượng cưỡng ép của chính phủ.
Phê phán Marx ở góc độ kinh tế
Xung đột giữa các nhà kinh tế học Trường phái Áo và chủ nghĩa xã hội bắt đầu ngay từ rất sớm. Tư tưởng của Menger nói rằng giá trị không phải là chất lượng của món hàng, mà giá trị chỉ tồn tại trong đầu óc của các cá nhân cho rằng nó có ích, đã trực tiếp mâu thuẫn với tư tưởng, do Karl Marx quảng bá, nói rằng giá trị của món hàng là lượng lao động được sử dụng để sản xuất ra nó. Theo lí thuyết giá trị lao động, càng nhiều công lao động được bỏ ra để sản xuất một cái gì đó thì giá trị của nó càng lớn.
Tuy nhiên, lí thuyết này không vượt qua được thử thách. Menger đã chỉ ra rằng món hàng không có giá trị chỉ vì người sản xuất đã bỏ ra nhiều thời gian và công sức để làm ra nó. Nó chỉ có giá trị khi người tiêu dùng thực sự muốn nó và hài lòng về nó. Các lí thuyết kinh tế và chính trị của Marx lấy người sản xuất làm kim chỉ nam là lí thuyết đặt chân lên đầu: Không phải công sức làm ra món hàng làm cho nó có giá trị, mà giá trị mà người tiêu dùng đặt vào nó quyết định đáng đầu tư bao nhiêu công sức để sản xuất ra nó.
Böhm-Bawerk còn phê phán Marx một cách bao quát và tinh tế. Cụ thể, ông khẳng định rằng Marx đã hoàn toàn quên tầm quan trọng của thời gian trong quá trình sản xuất. Trên cơ sở lí thuyết giá trị lao động, Marx tin rằng các ông trùm tư bản đã bóc lột công nhân, vì đã nhận được mấy ngày lao động – và do đó, giá trị từ trước, mà chỉ trả lương cho công nhân vào cuối tuần. Ngược lại, Böhm-Bawerk nói: Với quá trình sản xuất rắc rối, kéo dài, phức tạp và “lòng vòng”, đặc trưng của nền kinh tế hiện đại, có thể phải mất mấy tháng hay thậm chí mấy năm trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường – và chỉ khi đó, doanh nhân mới được trả tiền. Trên thực tế, các doanh nhân trả cho công nhân thu nhập trước khi có doanh thu mà họ hi vọng sẽ nhận được sau khi bán những hàng hoá mà người ta sản xuất được.
Đấy thậm chí không phải là hi vọng chắc chắn. Nó còn là rủi ro mà doanh nhân chấp nhận, cùng với gánh nặng tài chính và công việc tổ chức quá trình sản xuất phức tạp và “lòng vòng”. Tiền lương trả cho công nhân chỉ có thể phản ánh điều mà hiện nay người ta kì vọng rằng sản phẩm của họ sẽ có giá trị trong tương lai, khi chúng được đưa ra trước người tiêu dùng. Hiển nhiên là, các doanh nhân và công nhân có thể không đồng ý về mức lương, doanh nhân (người chấp nhận rủi ro) có thể sẽ thận trọng hơn công nhân và những người đại diện của họ. Đấy là lí do vì sao lại có những vụ tranh chấp về tiền lương. Nhưng tranh chấp là sự khác biệt hoàn toàn mang tính tự nhiên trong đánh giá, chứ không phải là dấu hiệu rằng một người nào đó đang bị bóc lột.
Cuộc tranh luận về tính toán xã hội chủ nghĩa trong kinh tế
Mises bồi thêm một đòn nữa vào chủ nghĩa xã hội về kinh tế nói chung, đấy là cái mà người ta gọi là cuộc tranh luận về tính toán xã hội chủ nghĩa hồi những năm 1920 và 1930. Quan điểm của ông là các phương pháp sản xuất hiện nay rất phức tạp và để sản xuất ra những thứ cần trong nền kinh tế hiện đại phải có một lượng lớn đầu vào. Tất nhiên, mỗi thứ đều có thể được sử dụng theo rất nhiều cách khác nhau, trong rất nhiều quá trình sản xuất khác nhau, để tạo ra một số lượng lớn các sản phẩm thay thế. Làm sao người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa biết nên chọn đầu vào nào, quy trình nào và sản phẩm nào?
Ví dụ, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nên sản xuất thêm rượu hay thêm dầu? Để sản xuất một trong hai thứ đó cần các loại và số lượng đất đai, kho lưu trữ, chai, thùng, vận chuyển, và nhiều thứ khác nhau khác. Mỗi quyết định về việc sản xuất một cái gì đó lại phải có nhiều quyết định khác, muốn sản xuất nó thì cần những cái gì và làm sao phối hợp được những biện pháp sử dụng tư liệu sản xuất có thể mâu thuẫn với nhau. Như Hayek nói, số lượng các lựa chọn là quá lớn, đầu óc của con người không thể kham nổi.
Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cơ cấu và phương hướng của sản xuất, tất nhiên, được thúc đẩy bởi cơ chế rất đơn giản là giá cả. Giá của món hàng tiêu dùng phản ánh giá trị mà người ta gán cho nó, khi họ trao đổi những món hàng hóa khác nhau trên thị trường. Đến lượt mình, giá cả nói cho người sản xuất biết cần phải chi bao nhiêu để sản xuất ra sản phẩm cụ thể đó. Do đó, giá của tư liệu sản xuất, như nhà xưởng, máy móc và đầu vào được sử dụng, sẽ cho người mua cuối cùng biết giá trị của món hàng tiêu dùng đó. Bằng cách này, giá của tư liệu sản xuất sẽ thu hút các nguồn lực sản xuất đến nơi mà chúng tạo ra giá trị cao nhất cho người tiêu dùng – thu hút một cách trực tiếp và hiệu quả.
Thế nhưng, trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất lại là sở hữu tập thể (Hàng hóa tiêu dùng không thể là sở hữu tập thể, vì một nhóm người không thể cùng mặc một cái áo hay cùng ăn một thanh soô-coô-la: vì vậy, những người xã hội chủ nghĩa chú tâm kêu gọi sở hữu tập thể tư liệu sản xuất, tức là cái có thể được sở hữu theo lối tập thể). Nhưng, nếu tư liệu sản xuất được sở hữu theo lối tập thể và không bao giờ có chuyện mua và bán thì không có thị trường mua bán những thứ đó và vì vậy mà không thể thiết lập được giá cả cho tư liệu sản xuất. Người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa không có biện pháp đơn giản để quyết định phải kết hợp những nguồn lực nào trong hàng triệu nguồn lực, theo cách nào trong hàng triệu cách khả dĩ, để sản xuất ra món hàng tiêu dùng nào trong hàng triệu món khác nhau.
Vấn đề phối hợp
Đó là khó khăn lớn, vì tư liệu sản xuất là khác nhau: rất đa dạng, có nhiều hình thức và phẩm chất khác nhau. Không có đơn vị tính toán duy nhất, lựa chọn giữa những tư liệu này cũng giống như chọn giữa dầu và rượu vậy. Không có kim chỉ nam về giá cả, lựa chọn phụ thuộc vào ý kiến cá nhân của những người lập kế hoạch – trái với ý kiến của công chúng, mà đấy lại là cái thúc đẩy sản xuất trong nền kinh tế thị trường.
Đây không phải là vấn đề thuần tuý kĩ thuật, có thể khắc phục được bằng cách thu thập đầy đủ số lượng máy tính, như một số người xã hội chũ nghĩa đề xuất. Không có người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa nào có hiểu biết trực tiếp về giá trị mà những người khác nhau gán cho những món hàng hóa khác nhau. Giá trị mang tính cá nhân và thông tin về sự khan hiếm hàng hóa là không đầy đủ, phân tán, thay đổi nhanh chóng, khác nhau về chất lượng, đa dạng về hình thức và thậm chí là khó chuyển sang máy tính. Không có đơn vị tính toán như giá cả, không thể nào so sánh được các mẩu thông tin và loại thông tin khác nhau. Không có cơ sở như thế để so sánh, thì không thể hành động với thông tin có sẵn theo bất kì biện pháp duy lí và đồng bộ nào. Một lần nữa, nó lại phụ thuộc vào lựa chọn cá nhân của những người có quyền lực.
Một số người xã hội chủ nghĩa phản ứng lại bằng cái mà họ gọi là chủ nghĩa xã hội thị trường, trong đó, những người lập kế hoạch chỉ đạo việc sử dụng tư liệu sản xuất như thể thị trường vẫn hiện diện. Nhưng, Mises vặn lại rằng, nếu không có thị trường thì những người lập kế hoạch không thể biết nó hoạt động như thế nào. Nếu quanh đó có thị trường mà những người lập kế hoạch có thể hi vọng sao chép – thì bao giờ họ cũng sẽ lẽo đẽo chạy theo những phát triển mới, và do đó, ít nhất, họ sẽ đánh mất một số giá trị. Nhưng mục đích của chủ nghĩa xã hội thế giới là giải phóng thế giới khỏi sở hữu tư nhân, và do đó giải phóng khỏi thị trường – lúc đó, những người lập kế hoạch sẽ hoàn toàn không có định hướng. Sẽ không còn thị trường tư liệu sản xuất để hướng dẫn cơ cấu sản xuất và không có thị trường vốn để đánh giá những khả năng sản xuất khác nhau và phân bổ một cách hiệu quả đồng vốn. Không có lợi nhuận thì sẽ không có doanh nhân nào sẵn sàng ứng phó trước những biến động của những nguồn lực khan hiếm và làm những việc cần thiết. Không có những cố gắng nhằm “cải thiện” thì thị trường sẽ tạo không ra nhiều giá trị như chính thị trường vẫn tạo ra và kế hoạch hoá tập quyền hoàn toàn đơn giản là không thể hoạt động được. Nó có thể vẫn sống dặt dẹo trong thời gian dài, nhưng sẽ tạo ra ít giá trị hơn là thị trường, và nó càng dặt dẹo lâu thì thiếu hụt sẽ càng ngấm sâu hơn.
