Tác giả: Nguyễn Huy Vũ
Trong thế kỷ 20, Việt Nam đã trải qua những biến động chính trị lớn, kèm với nó là những cuộc chiến tranh. Hệ quả của nó là chế độ phong kiến nhà Nguyễn đã ra đi, và giờ đây một chế độ phong kiến kiểu mới đang cai trị Việt Nam. Nếu như chế độ phong kiến nhà Nguyễn cai trị Việt Nam dựa trên một dòng họ, thì chế độ cộng sản Việt Nam cai trị đất nước dựa trên một đảng. Dưới cả hai chế độ, người dân hoàn toàn không có bất cứ quyền nào để chọn nên những người lãnh đạo đất nước, và vì vậy họ không có một tiếng nói nào trong các chính sách của quốc gia. Điểm chung của người dân trong hai chế độ này đó là họ là những người ở đợ trên chính đất nước của mình.
Các chế độ này hoàn toàn lỗi thời trước xu thế văn minh của thời đại — thời đại của dân chủ và tự do, nơi các quyền con người cơ bản được tôn trọng. Trong các quyền đó, có quyền được tham gia vào đời sống chính trị của đất nước mình, quyền tự do ngôn luận, và quyền được xét xử công bằng. Đây là những quyền hiện đang bị xâm phạm một cách nghiêm trọng nhất của quốc gia.
Trong chế độ cộng sản hiện nay, không một đảng phái đối lập nào được phép tồn tại ngoài đảng cộng sản. Các cuộc bầu cử chỉ là những màn trình diễn, khi không một đảng phái nào khác được phép tham dự. Không có cơ quan giám sát bầu cử một cách độc lập. Hơn nữa, cơ chế hiệp thương của đảng Cộng sản đã cho phép nó tự tiện gạt bỏ đi bất cứ ứng cử viên nào, kể cả những đảng viên của nó. Đó không phải là một cuộc bầu cử tự do, thậm chí đối với các đảng viên cộng sản.
Không có một tờ báo độc lập nào được phép tồn tại trong chế độ cộng sản hiện nay. Tất cả những tờ báo hiện diện trong chế độ hiện nay đều chịu sự quản lý trực tiếp của đảng Cộng sản và các cơ quan của nó. Không chỉ dừng ở đó, khi người dân tìm cách thể hiện ý kiến của mình qua các phương tiện xã hội khác, họ liên tục bị đe doạ bằng các hình phạt và bị bỏ tù bởi những điều luật phi lý.
Công lý không tồn tại trong chế độ hiện nay. Nếu có công lý, hẳn các lãnh đạo đảng Cộng sản phải bị bỏ tù, vì họ liên tục vi phạm các công ước quốc tế mà họ đã ký và cam kết thực thi — trong đó có nghĩa vụ đảm bảo các quyền tự do và dân chủ cơ bản.
Nếu có công lý, hẳn sẽ không bao giờ tồn tại chính sách đất đai thuộc sở hữu của toàn dân khi mà mảnh đất gắn với quyền sở hữu cá nhân giờ đây lại chuyển thành sở hữu toàn dân và do nhà nước quản lý. Nhưng toàn dân và nhà nước là một. Và vì vậy mà sở hữu cá nhân giờ đây chuyển thành sở hữu nhà nước. Đó là một hình thức tước đoạt tài sản bằng văn bản và thủ tục hành chính.
Một nhà nước tự ban hành luật để bảo vệ quyền sở hữu cá nhân, nhưng đồng thời lại trắng trợn vi phạm chính những luật đó, chỉ có thể được gọi là một chính quyền phi công lý. Và chính vì sự phi công lý ấy, mà hàng vạn người dân mất đất — bị tước đoạt một cách dễ dàng để phục vụ cho lợi ích của các nhóm thân hữu.
Cũng chính vì sự phi công lý đó, các dự án quốc gia không được trao cho những đơn vị có năng lực và minh bạch, mà lại rơi vào tay các nhóm lợi ích gần gũi với chính quyền, dẫn đến thất thoát, lãng phí và suy yếu nền kinh tế quốc gia.
Sự phi công lý này tồn tại bởi vì Việt Nam không có đảng đối lập đóng vai trò kiểm soát quyền lực của đảng Cộng sản hay Việt Nam chưa có dân chủ.
Với những ai khao khát được sống trong một xã hội tự do và dân chủ — nơi các quyền con người cơ bản được tôn trọng, và người dân có quyền tự quản thông qua những đại diện do chính họ lựa chọn — câu hỏi đặt ra một cách tự nhiên là: Làm thế nào chúng ta có thể đạt được điều đó, xuất phát từ thực trạng hiện nay?
Xã hội dân chủ có những nguyên tắc đặc trưng nhất định. Những nguyên tắc này thiết lập nên một bộ khung hoạt động của xã hội mà ở đó các giá trị tự do và dân chủ được xiển dương và phát triển.
Trong suốt chiều dài lịch sử, chỉ một bộ phận nhỏ người Việt từng có cơ hội trải nghiệm một chế độ tương đối dân chủ – dù còn nhiều khiếm khuyết. Đó là giai đoạn 20 năm từ 1954 đến 1975 tại miền Nam Việt Nam, một quãng thời gian ngắn ngủi đã kết thúc cách đây nửa thế kỷ. Những người từng sống và ghi nhớ thời kỳ đó giờ đây phần lớn đã cao tuổi, nếu còn sống.
Đa số người dân Việt Nam ngày nay gần như không có nhận thức rõ ràng về các giá trị cốt lõi của một xã hội dân chủ: dân chủ là gì, gồm những yếu tố nào; người dân có quyền và trách nhiệm gì; chính phủ cần làm gì và bị giới hạn ra sao; xã hội dân chủ vận hành theo những nguyên tắc nào; vai trò của các nhóm xã hội khác nhau như thế nào; bộ máy nhà nước nên được tổ chức ra sao để vừa hiệu quả, vừa bảo đảm các quyền con người, v.v.
Tất cả những điều đó đều cần được học nếu một xã hội muốn chuyển mình sang dân chủ. Giống như khi bạn bước vào một ngôi nhà mới — bạn cần hiểu và tuân thủ những quy tắc để có thể sống hài hòa trong ngôi nhà ấy.
Chuyển đổi từ độc tài sang dân chủ, vì thế, không chỉ là thay đổi về thể chế chính trị, mà còn là một cuộc chuyển hóa sâu sắc về văn hoá — văn hoá nhận thức và văn hoá sống.
Tuyển tập dưới đây của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ trình bày một cách tổng quan về những nguyên tắc đặc trưng đó của một xã hội dân chủ.
Tuyển tập này không chỉ giúp độc giả hệ thống hóa những nguyên tắc cốt lõi của một xã hội tự do và dân chủ, mà còn khơi dậy suy tư nơi những công dân yêu nước — những người khao khát dấn thân vì một Việt Nam dân chủ. Với những tấm lòng như vậy, họ sẽ tìm thấy ở đây một định hướng rõ ràng: cùng nhau xây dựng và xác lập những nguyên tắc nền tảng cho một nền dân chủ đích thực, như một bước đi thiết yếu để đưa đất nước tiến gần hơn đến mục tiêu ấy.
Việc thiết lập những nguyên tắc nền tảng cho một xã hội dân chủ không phải là điều có thể đạt được trong một sớm một chiều, và chắc chắn không thể do một cá nhân đơn lẻ thực hiện. Đó là một quá trình dần dần mở rộng các giới hạn mà thể chế độc tài áp đặt lên xã hội, nhằm kiến tạo một không gian dân sự ngày càng rộng lớn hơn, từ đó từng bước tiệm cận với các nguyên tắc của nền dân chủ.
Cụ thể, một cá nhân hoặc một nhóm người có thể góp phần đẩy nhanh tiến trình dân chủ hóa bằng cách thúc đẩy sự phát triển trong những lĩnh vực then chốt như: nhân quyền, pháp quyền, bình đẳng giới, giáo dục công dân, tự do báo chí, phát triển các đảng phái chính trị, và tăng cường trách nhiệm giải trình của chính phủ.
Trong quá trình mở rộng không gian dân sự, những người dấn thân chắc chắn sẽ sử dụng tiếng nói và ảnh hưởng của mình như những công cụ đấu tranh bất bạo động. Cách tiếp cận này vừa giúp họ mở rộng mặt trận hoạt động một cách linh hoạt, vừa duy trì được sự an toàn và bền bỉ cho lực lượng tham gia. Qua đó, từng bước đẩy lùi các giới hạn do chính quyền áp đặt — cho đến khi những giới hạn ấy không còn tồn tại.
21/6/2025
Tải cuốn sách về dưới dạng PDF ở đây và dưới dạng EPUB ở đây.