Kinh tế học trong một bài học. Chương 22: Ảo ảnh của lạm phát

Tác giả: Henry Hazlitt.

Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.

Biên dịch: Phong trào Duy Tân.

Chương 22: Ảo ảnh của lạm phát

1

Tôi thấy cần thiết phải cảnh báo độc giả rằng, tùy vào từng thời điểm, một kết quả nhất định sẽ tất yếu xảy ra từ một chính sách cụ thể, “nếu không có lạm phát”. Trong các chương nói về công trình công cộng và tín dụng, tôi đã cho rằng việc phân tích những phức tạp mà lạm phát gây ra sẽ phải để lại sau. Tuy nhiên, tiền tệ và chính sách tiền tệ có mối quan hệ chặt chẽ, đôi khi không thể tách rời, với hầu hết các quá trình kinh tế. Chính vì vậy, việc tách biệt chúng, dù chỉ để phục vụ cho mục đích giải thích, thực sự rất khó khăn. Và trong các chương bàn về tác động của những chính sách tiền lương khác nhau do chính phủ hoặc công đoàn áp đặt đối với việc làm, lợi nhuận và sản xuất, một số tác động của các chính sách tiền tệ khác nhau buộc phải được đề cập ngay lập tức.

Trước khi xem xét những hậu quả của lạm phát trong từng trường hợp cụ thể, chúng ta nên suy ngẫm về những hệ quả chung của nó. Thậm chí, trước khi đi vào vấn đề đó, có lẽ ta cần đặt câu hỏi: Vì sao lạm phát lại liên tục xuất hiện? Tại sao nó luôn giữ một sức hấp dẫn mạnh mẽ qua bao thế hệ? Và vì sao giai điệu quyến rũ của nó vẫn mê hoặc các quốc gia, khiến họ không ngừng bước lên con đường dẫn tới thảm họa kinh tế?

Sai lầm hiển nhiên nhất, nhưng cũng là sai lầm lâu đời và khó thay đổi nhất, nền tảng cho sức hấp dẫn của lạm phát, chính là sự nhầm lẫn giữa “tiền” và sự “giàu có”. Như Adam Smith đã viết gần hai thế kỷ trước: “Cho rằng sự giàu có nằm ở tiền, hay ở vàng và bạc, là một quan niệm phổ biến xuất phát tự nhiên từ hai chức năng kép của tiền tệ – vừa là công cụ thương mại, vừa là thước đo giá trị… Làm giàu có nghĩa là kiếm tiền; và tóm lại, trong ngôn ngữ thông thường, sự giàu có và tiền bạc thường được coi là đồng nghĩa với nhau ở mọi phương diện.”

Tất nhiên, sự giàu có thực sự không nằm ở tiền, mà ở những gì được sản xuất và tiêu dùng: là thực phẩm ta ăn, quần áo ta mặc, những căn nhà ta ở. Đó là hệ thống giao thông – từ đường sắt, đường bộ đến xe hơi; là tàu thuyền, máy bay và nhà máy; là trường học, nhà thờ và rạp hát; là đàn piano, tranh vẽ và sách vở. Tuy nhiên, sự mơ hồ trong ngôn từ khiến người ta nhầm lẫn giữa tiền và sự giàu có một cách mạnh mẽ đến mức, ngay cả những ai đôi khi nhận thức được sự nhầm lẫn này cũng dễ dàng rơi trở lại vào đó trong quá trình lý luận của mình. Ai cũng hiểu rằng nếu cá nhân có nhiều tiền hơn, anh ta sẽ có khả năng mua được nhiều thứ hơn từ người khác. Nếu anh ta có gấp đôi số tiền hiện tại, anh ta có thể mua gấp đôi lượng hàng hóa; nếu có gấp ba lần, anh ta sẽ “giàu có” gấp ba. Và với nhiều người, kết luận dường như rất hiển nhiên: nếu chính phủ phát hành thêm tiền và phân phát cho mọi người, tất cả chúng ta sẽ đều trở nên giàu có.

Đó là nhóm người theo thuyết lạm phát một cách ngây thơ nhất. Còn có một nhóm thứ hai, ít ngây thơ hơn, nhận ra rằng nếu mọi chuyện đơn giản như vậy thì chính phủ đã có thể giải quyết tất cả vấn đề của chúng ta chỉ bằng cách in tiền. Tuy nhiên, họ cũng cảm thấy rằng chắc chắn phải có một cái bẫy ẩn chứa đâu đó, vì vậy họ muốn giới hạn số tiền bổ sung mà chính phủ nên phát hành. Họ cho rằng chính phủ chỉ nên in đủ tiền để bù đắp cho cái gọi là “thiếu hụt” hay “khoảng trống” nào đó trong nền kinh tế.

Họ tin rằng sức mua luôn thiếu hụt, bởi vì ngành công nghiệp dường như đã không phân phối đủ tiền cho các nhà sản xuất, khiến họ, với tư cách là người tiêu dùng, không thể mua lại những sản phẩm đã được sản xuất ra. Họ cho rằng có một “rò rỉ” bí ẩn nào đó trong nền kinh tế. Một số người trong nhóm này còn “chứng minh” quan điểm của mình bằng các phương trình. Trong đó, ở một vế của phương trình, họ chỉ tính một khoản mục duy nhất một lần, nhưng ở vế kia, họ lại vô tình tính cùng một khoản mục đó nhiều lần. Kết quả là tạo ra một khoảng cách đáng báo động giữa cái mà họ gọi là “thanh toán A” và cái mà họ gọi là “thanh toán A + B”. Và thế là một phong trào ra đời, với những người mặc đồng phục màu xanh lá cây, yêu cầu chính phủ phát hành tiền hoặc “tín dụng” để bù đắp cho các khoản thanh toán B bị thiếu.

Những người truyền bá thô thiển của “tín dụng xã hội” có thể trông có vẻ nực cười, nhưng trên thực tế, có vô số trường phái của những người theo chủ nghĩa lạm phát, chỉ tinh vi hơn một chút. Họ đưa ra những kế hoạch “khoa học” nhằm phát hành một lượng tiền hoặc tín dụng vừa đủ để lấp đầy cái gọi là “thiếu hụt” hay “khoảng trống” mang tính chu kỳ hoặc kinh niên, mà họ tính toán theo những cách thức riêng biệt.

2

Những người theo chủ nghĩa lạm phát hiểu biết hơn thì nhận thức rằng bất kỳ sự gia tăng đáng kể nào trong lượng tiền tệ đều sẽ làm giảm sức mua của mỗi đơn vị tiền – hay nói cách khác, nó sẽ khiến giá cả hàng hóa tăng lên. Tuy nhiên, điều này không khiến họ lo ngại. Ngược lại, chính vì lý do đó mà họ ủng hộ lạm phát. Một số người lập luận rằng kết quả này sẽ cải thiện vị thế của những con nợ nghèo so với những chủ nợ giàu có. Những người khác cho rằng lạm phát sẽ thúc đẩy xuất khẩu và kiềm chế nhập khẩu. Cũng có người tin rằng đây là biện pháp cần thiết để chữa trị suy thoái, “kích hoạt lại ngành công nghiệp” và đạt được “toàn dụng lao động.”

Có vô số lý thuyết về cách thức mà việc gia tăng lượng tiền (bao gồm cả tín dụng ngân hàng) ảnh hưởng đến giá cả. Một mặt, như chúng ta đã thấy, có những người tin rằng lượng tiền có thể tăng gần như vô hạn mà không làm ảnh hưởng đến giá cả. Họ đơn giản coi sự gia tăng tiền tệ như một phương tiện để tăng cường “sức mua” của mọi người, nghĩa là giúp mỗi người có thể mua được nhiều hàng hóa hơn trước. Tuy nhiên, họ không tự nhắc mình rằng: mọi người không thể cùng nhau mua gấp đôi lượng hàng hóa so với trước nếu lượng hàng hóa không được sản xuất ra gấp đôi; hoặc họ cho rằng điều duy nhất kìm hãm sự gia tăng vô hạn của sản xuất không phải là thiếu nhân công, thiếu thời gian lao động hay thiếu năng lực sản xuất, mà chỉ là sự thiếu hụt nhu cầu tiền tệ. Họ tin rằng nếu mọi người muốn hàng hóa và có tiền để trả cho chúng, thì hàng hóa sẽ gần như tự động được sản xuất.

Mặt khác, có một nhóm khác – bao gồm cả một số nhà kinh tế nổi tiếng – tin vào một lý thuyết cứng nhắc và cơ học về tác động của nguồn cung tiền đối với giá cả hàng hóa. Theo cách mà các nhà lý thuyết này hình dung, toàn bộ lượng tiền trong một quốc gia sẽ được sử dụng để trao đổi lấy toàn bộ lượng hàng hóa. Do đó, giá trị tổng lượng tiền nhân với “tốc độ lưu thông” của nó phải luôn bằng giá trị tổng lượng hàng hóa được mua. Từ đó, giả sử “tốc độ lưu thông” không thay đổi, giá trị của một đơn vị tiền tệ sẽ thay đổi một cách chính xác và tỷ lệ nghịch với lượng tiền được đưa vào lưu thông. Nếu lượng tiền và tín dụng ngân hàng tăng gấp đôi, mức giá sẽ tăng đúng gấp đôi; nếu tăng gấp ba, mức giá sẽ tăng gấp ba. Tóm lại, nếu nhân lượng tiền lên n lần, giá cả hàng hóa cũng sẽ tăng lên n lần.

Tại đây, không có đủ không gian để giải thích tất cả những ngụy biện trong bức tranh có vẻ hợp lý này. Thay vào đó, chúng ta sẽ cố gắng tìm hiểu lý do vì sao và bằng cách nào việc gia tăng lượng tiền lại làm tăng giá cả.

Lượng tiền tăng thêm xuất hiện theo một cách cụ thể. Giả sử rằng nó xuất hiện khi chính phủ chi tiêu nhiều hơn số tiền mà họ có thể hoặc muốn chi trả từ thuế (hoặc từ việc bán trái phiếu mà người dân mua bằng tiền tiết kiệm thực sự). Ví dụ, giả sử chính phủ in tiền để trả cho các nhà thầu chiến tranh. Khi đó, tác động đầu tiên của những khoản chi này sẽ là làm tăng giá các vật tư được sử dụng trong chiến tranh và chuyển thêm tiền vào tay các nhà thầu chiến tranh cùng nhân viên của họ. (Trong chương bàn về ấn định giá cả, chúng ta từng tạm bỏ qua những phức tạp do lạm phát gây ra để đơn giản hóa vấn đề; tương tự, khi xét đến lạm phát ở đây, ta cũng có thể tạm lướt qua những phức tạp phát sinh từ việc chính phủ cố gắng ấn định giá cả. Khi những yếu tố này được xem xét sau, chúng ta sẽ thấy rằng chúng không thay đổi phân tích cốt lõi mà chỉ dẫn đến một dạng lạm phát bị dồn nén, làm giảm bớt hoặc che giấu một số hậu quả ban đầu, nhưng lại làm trầm trọng thêm những hậu quả sau này.)

Do đó, các nhà thầu chiến tranh và nhân viên của họ sẽ có thu nhập bằng tiền cao hơn. Họ sẽ chi tiêu vào những hàng hóa và dịch vụ mà họ mong muốn. Những người bán các hàng hóa và dịch vụ đó, nhờ nhu cầu tăng lên, sẽ có thể điều chỉnh giá. Những người có thu nhập tăng lên sẽ sẵn sàng trả mức giá cao hơn thay vì từ bỏ món hàng, bởi vì họ có nhiều tiền hơn, và mỗi đô la trong mắt họ sẽ mang giá trị chủ quan thấp hơn.

Chúng ta hãy gọi các nhà thầu chiến tranh và nhân viên của họ là nhóm A, và những người mà họ trực tiếp mua thêm hàng hóa và dịch vụ là nhóm B. Do doanh số và giá cả tăng, nhóm B giờ đây sẽ mua thêm hàng hóa và dịch vụ từ một nhóm khác nữa, nhóm C. Đến lượt mình, nhóm C sẽ có thể tăng giá và có thêm thu nhập để chi tiêu cho nhóm D, và quá trình này cứ thế tiếp tục cho đến khi giá cả và thu nhập bằng tiền tăng lên trên phạm vi gần như toàn quốc. Khi quá trình này hoàn tất, gần như mọi người đều sẽ có thu nhập cao hơn nếu tính bằng tiền. Nhưng (giả sử sản lượng hàng hóa và dịch vụ không tăng), giá của hàng hóa và dịch vụ cũng sẽ tăng tương ứng; và quốc gia sẽ không trở nên giàu có hơn trước.

Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là của cải và thu nhập tương đối hay tuyệt đối của mọi người sẽ giữ nguyên như trước. Trái lại, quá trình lạm phát chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến vận mệnh của từng nhóm người một cách khác nhau. Những nhóm đầu tiên nhận được lượng tiền tăng thêm sẽ hưởng lợi nhiều nhất. Chẳng hạn, thu nhập bằng tiền của nhóm A sẽ tăng trước khi giá cả tăng, do đó họ có thể mua được lượng hàng hóa tăng gần như tương ứng. Thu nhập của nhóm B sẽ tăng sau, khi giá cả đã bắt đầu nhích lên; nhưng nhóm B cũng sẽ được lợi về mặt hàng hóa. Tuy nhiên, trong khi đó, các nhóm vẫn chưa hề được tăng thu nhập bằng tiền sẽ bị buộc phải trả giá cao hơn cho những thứ họ mua, nghĩa là họ sẽ phải sống với mức sống thấp hơn trước.

Chúng ta có thể làm rõ hơn quá trình này bằng một tập hợp các số liệu giả định. Giả sử chúng ta chia cộng đồng một cách tùy ý thành bốn nhóm nhà sản xuất chính A, B, C và D, những người lần lượt nhận được lợi ích về thu nhập bằng tiền từ lạm phát theo thứ tự đó. Khi thu nhập bằng tiền của nhóm A đã tăng 30%, giá của những mặt hàng họ mua vẫn chưa tăng chút nào. Đến khi thu nhập của nhóm B tăng 20%, thì giá cả trung bình mới chỉ tăng 10%. Tuy nhiên, khi thu nhập của nhóm C chỉ mới tăng 10%, thì giá cả đã tăng 15%. Và đến khi thu nhập của nhóm D vẫn chưa tăng chút nào, thì giá trung bình của những thứ họ phải mua đã tăng đến 20%. Nói cách khác, lợi ích mà các nhóm nhà sản xuất đầu tiên được hưởng từ việc giá cả hoặc tiền lương tăng do lạm phát tất yếu đến từ tổn thất (với tư cách là người tiêu dùng) mà những nhóm nhà sản xuất cuối cùng phải chịu khi có khả năng tăng giá hoặc tiền lương.

Có thể xảy ra trường hợp, nếu lạm phát được chấm dứt sau vài năm, thì kết quả cuối cùng sẽ là thu nhập bằng tiền tăng trung bình 25%, và mức tăng trung bình tương đương trong giá cả, và cả hai đều được phân bổ tương đối đều giữa các nhóm. Nhưng điều đó không xóa bỏ được những tổn thất và lợi ích phát sinh trong giai đoạn chuyển tiếp. Nhóm D, chẳng hạn, dù sau cùng thu nhập và giá cả của họ đã tăng 25%, thì họ cũng chỉ có thể mua được lượng hàng hóa và dịch vụ như trước khi lạm phát bắt đầu. Họ sẽ không bao giờ bù đắp được những tổn thất trong giai đoạn mà thu nhập và giá cả của họ không tăng chút nào, trong khi họ vẫn phải trả giá cao hơn đến 30% để mua hàng hóa và dịch vụ từ các nhóm sản xuất khác trong cộng đồng là A, B và C.

3

Vì vậy, lạm phát chỉ là một ví dụ nữa minh họa cho bài học trung tâm của chúng ta. Trên thực tế, nó có thể mang lại lợi ích trong ngắn hạn cho một số nhóm được ưu đãi, nhưng cái giá phải trả là sự tổn hại đối với những nhóm khác. Và về lâu dài, nó sẽ gây ra hậu quả tai hại cho toàn bộ cộng đồng. Ngay cả một mức lạm phát tương đối nhẹ cũng có thể làm méo mó cơ cấu sản xuất. Nó dẫn đến sự mở rộng quá mức của một số ngành công nghiệp, trong khi những ngành khác phải chịu thiệt hại. Hệ quả là việc sử dụng sai mục đích và lãng phí vốn. Khi lạm phát sụp đổ hoặc dừng lại, các khoản đầu tư vốn bị sai hướng – dù là máy móc, nhà xưởng hay tòa nhà văn phòng – sẽ không thể mang lại lợi nhuận như mong đợi, và phần lớn giá trị của chúng sẽ bị mất đi.

Chúng ta cũng không thể chấm dứt lạm phát một cách êm ái và nhẹ nhàng mà không dẫn đến một cuộc suy thoái sau đó. Thực tế, không thể dừng lạm phát một khi nó đã bắt đầu, tại một mức độ nào đó đã được định trước, hay khi giá cả đã đạt đến mức đã được thỏa thuận trước; bởi vì cả các lực lượng chính trị lẫn kinh tế sẽ vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Bạn không thể lập luận ủng hộ việc dùng lạm phát để tăng giá 25% mà không có ai đó phản biện rằng lý lẽ này còn đúng gấp đôi đối với mức tăng 50%, và rồi sẽ có người khác cho rằng nó đúng gấp bốn lần đối với mức tăng 100%. Các nhóm lợi ích chính trị từng được hưởng lợi từ lạm phát sẽ kiên quyết đòi duy trì nó.

Hơn nữa, việc kiểm soát giá trị của đồng tiền trong điều kiện lạm phát là điều không thể. Như chúng ta đã thấy, nguyên nhân của lạm phát không bao giờ chỉ đơn giản là một vấn đề cơ học thuần túy. Bạn không thể, chẳng hạn, khẳng định rằng việc tăng 100% lượng tiền sẽ dẫn đến việc giá trị của đồng tiền giảm 50%. Giá trị của đồng tiền, như đã trình bày, phụ thuộc vào sự định giá chủ quan của những người đang nắm giữ nó. Và những định giá đó không chỉ dựa vào lượng tiền mà mỗi người sở hữu, mà còn phụ thuộc vào chất lượng của đồng tiền đó. Trong thời chiến, giá trị của đồng tiền của một quốc gia không theo chế độ bản vị vàng sẽ tăng trên thị trường ngoại hối khi thắng và giảm khi thua, bất kể lượng tiền có thay đổi hay không. Sự định giá hiện tại của người dân thường phụ thuộc vào kỳ vọng của họ về lượng tiền trong tương lai. Tương tự như các hàng hóa trên các sàn giao dịch đầu cơ, sự định giá của mỗi người về đồng tiền không chỉ bị ảnh hưởng bởi quan điểm của chính họ về giá trị của nó, mà còn bởi việc họ nghĩ rằng những người khác sẽ định giá nó như thế nào.

Tất cả những yếu tố này lý giải tại sao, khi siêu lạm phát đã xảy ra, giá trị của đồng tiền sẽ giảm nhanh chóng hơn rất nhiều so với mức độ tăng lên của lượng tiền. Khi đạt đến giai đoạn này, thảm họa đã gần như hoàn tất và mọi kế hoạch đều bị phá sản.

4

Thế nhưng, lòng nhiệt thành với lạm phát thì không bao giờ tắt. Có vẻ như không một quốc gia nào có khả năng rút ra bài học từ kinh nghiệm của quốc gia khác, và không một thế hệ nào học hỏi từ nỗi đau khổ của cha ông. Mỗi thế hệ, mỗi quốc gia lại đuổi theo cùng một ảo ảnh. Mỗi lần như thế, họ lại vồ lấy trái cây của Biển Chết, thứ quả mà khi đưa lên miệng lại hóa thành tro bụi. Bởi vì bản chất của lạm phát là tạo ra hàng ngàn ảo tưởng.

Trong thời đại ngày nay, lý lẽ được lặp đi lặp lại nhiều nhất để biện minh cho lạm phát là nó sẽ “kích hoạt lại nền công nghiệp”, rằng nó sẽ cứu chúng ta khỏi những thiệt hại không thể cứu vãn do đình trệ và thất nghiệp, đồng thời mang lại “toàn dụng lao động”. Lý lẽ này, ở dạng đơn giản nhất, bắt nguồn từ sự nhầm lẫn lâu dài giữa tiền tệ và sự giàu có thực sự. Nó cho rằng “sức mua mới” đang được tạo ra, và rằng những tác động của sức mua này sẽ tự lan rộng theo dạng vòng tròn, giống như gợn sóng từ một viên đá ném xuống mặt hồ. Tuy nhiên, như chúng ta đã thấy, sức mua thực sự đối với hàng hóa chính là các hàng hóa khác. Nó không thể được tăng lên một cách kỳ diệu chỉ bằng cách in thêm những tờ tiền mới. Về bản chất, trong nền kinh tế trao đổi, những gì A sản xuất sẽ được đổi lấy những gì B sản xuất.

Thực tế, những gì lạm phát thực sự làm là thay đổi các mối quan hệ giữa giá cả và chi phí. Biến đổi quan trọng nhất mà lạm phát cố gắng tạo ra là việc nâng giá hàng hóa so với mức lương, từ đó phục hồi lợi nhuận kinh doanh và khuyến khích tái sản xuất tại các điểm có nguồn lực chưa được sử dụng hiệu quả, bằng cách thiết lập lại một mối quan hệ khả thi giữa giá cả và chi phí sản xuất.

Rõ ràng, mục tiêu này có thể đạt được một cách trực tiếp và trung thực hơn thông qua việc giảm mức lương. Tuy nhiên, những người ủng hộ lạm phát, với sự hiểu biết sâu sắc hơn, lại cho rằng việc giảm lương trực tiếp hiện nay là điều không thể thực hiện về mặt chính trị. Họ đôi khi còn đi xa hơn, cáo buộc rằng mọi đề xuất nhằm giảm trực tiếp mức lương trong bất kỳ hoàn cảnh nào để giảm thất nghiệp đều là “chống lại quyền lợi của người lao động”. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận một cách thẳng thắn, những gì họ đang đề xuất thực chất là lừa dối người lao động bằng cách giảm tiền lương thực tế (tức là tiền lương tính theo sức mua) thông qua việc tăng giá cả.

Điều mà họ bỏ qua là, ngày nay, người lao động đã trở nên tinh tường hơn rất nhiều. Các công đoàn lớn hiện nay thuê các nhà kinh tế lao động, những người am hiểu về các chỉ số kinh tế, và người lao động không dễ bị đánh lừa. Vì vậy, trong bối cảnh hiện tại, chính sách này có vẻ khó đạt được bất kỳ mục tiêu kinh tế hay chính trị nào. Bởi chính các công đoàn hùng mạnh nhất, nơi mà mức lương cần được điều chỉnh nhiều nhất, sẽ kiên quyết yêu cầu lương của họ phải tăng ít nhất tương ứng với bất kỳ sự gia tăng nào trong chỉ số chi phí sinh hoạt. Nếu yêu cầu của các công đoàn quyền lực này được chấp nhận, sự mất cân đối giữa giá cả và mức lương sẽ tiếp tục tồn tại. Thực tế, cơ cấu tiền lương có thể trở nên méo mó hơn nữa, vì đại đa số người lao động không thuộc công đoàn—những người vốn dĩ có mức lương không cao (và có thể đã bị đè nén một cách bất công do sự phân biệt của các công đoàn)—sẽ càng bị thiệt hại nhiều hơn trong giai đoạn chuyển tiếp khi giá cả tăng cao.

5

Tóm lại, những người ủng hộ lạm phát một cách tinh vi lại thiếu sự trung thực. Họ không trình bày quan điểm của mình một cách minh bạch, và cuối cùng, họ thậm chí còn tự lừa dối chính mình. Họ bắt đầu nói về tiền giấy, giống như những người theo chủ nghĩa lạm phát ngây thơ, như thể đó là một dạng của cải có thể dễ dàng tạo ra bằng cách in ấn. Họ thậm chí nghiêm túc bàn luận về một “hệ số nhân”, theo đó mỗi đô la mà chính phủ in ra và chi tiêu sẽ kỳ diệu biến thành nhiều đô la được thêm vào trong tổng của cải quốc gia.

Tóm lại, họ đã làm lệch hướng sự chú ý của cả công chúng lẫn chính mình khỏi những nguyên nhân thực sự của tình trạng suy thoái hiện tại. Bởi vì, phần lớn thời gian, nguyên nhân thực sự nằm ở sự mất cân đối trong cấu trúc tiền lương – chi phí – giá cả: sự mất cân đối giữa tiền lương và giá cả, giữa giá nguyên liệu thô và giá thành phẩm, hoặc giữa các mức giá và mức lương khác nhau. Tại một thời điểm nào đó, những mất cân đối này đã làm mất đi động lực sản xuất, hoặc khiến việc sản xuất không thể tiếp tục; và thông qua sự phụ thuộc hữu cơ trong nền kinh tế trao đổi của chúng ta, suy thoái đã lan rộng. Chỉ khi những mất cân đối này được điều chỉnh, sản xuất và việc làm mới có thể được khôi phục hoàn toàn.

Đúng là lạm phát đôi khi có thể điều chỉnh những mất cân đối này, nhưng đó là một phương pháp nguy hiểm và dễ gây ảo giác. Nó không điều chỉnh một cách công khai và minh bạch, mà thông qua việc tạo ra ảo tưởng. Nó giống như việc đánh thức ai đó dậy sớm hơn một giờ chỉ bằng cách làm họ tin rằng bây giờ là tám giờ, trong khi thực tế mới là bảy giờ. Có lẽ không phải ngẫu nhiên mà một thế giới phải dùng đến trò lừa dối bằng cách chỉnh đồng hồ nhanh lên một giờ để đạt được kết quả đó, lại cũng là một thế giới phải dùng đến lạm phát để đạt được kết quả tương tự trong lĩnh vực kinh tế.

Lạm phát che phủ mọi tiến trình kinh tế bằng một tấm màn ảo giác. Nó làm bối rối và đánh lừa gần như tất cả mọi người, kể cả những người đang phải chịu thiệt hại vì nó. Tất cả chúng ta đều quen đo lường thu nhập và tài sản của mình bằng tiền. Thói quen tư duy này mạnh mẽ đến mức ngay cả các nhà kinh tế và chuyên gia thống kê cũng khó mà dứt bỏ hoàn toàn. Thật không dễ để luôn nhìn nhận các mối quan hệ dưới dạng hàng hóa thực và phúc lợi thực. Ai trong chúng ta lại không cảm thấy giàu có hơn và tự hào hơn khi được thông báo rằng thu nhập quốc dân của chúng ta đã tăng gấp đôi (dĩ nhiên là tính bằng đô la) so với trước thời kỳ lạm phát? Ngay cả một nhân viên văn phòng từng nhận 25 đô la mỗi tuần và giờ nhận 35 đô la cũng cảm thấy mình khá hơn theo một cách nào đó, mặc dù chi phí sinh hoạt của anh ta hiện cao gấp đôi so với khi anh ta còn nhận 25 đô la. Dĩ nhiên, anh ta không mù quáng trước sự gia tăng chi phí sinh hoạt. Nhưng anh ta cũng không hoàn toàn nhận thức được vị thế thực sự của mình như anh ta đã có thể nếu chi phí sinh hoạt của anh ta không thay đổi và nếu mức lương của anh ta bị cắt giảm để tương ứng với sức mua giảm đi mà anh ta hiện đang có, mặc dù lương của anh ta đã tăng, do giá cả tăng cao. Lạm phát chính là một dạng ám thị, một loại thôi miên, như liều thuốc gây tê khiến anh ta không cảm nhận được nỗi đau của cuộc phẫu thuật. Lạm phát chính là thuốc phiện của nhân dân.

6

Và đây chính là chức năng chính trị của lạm phát. Chính vì lạm phát tạo ra sự hỗn loạn, nên các chính phủ trong mô hình “nền kinh tế kế hoạch” hiện đại của chúng ta lại liên tục sử dụng nó. Như chúng ta đã thấy trong Chương IV, chỉ lấy một ví dụ, niềm tin rằng các công trình công cộng sẽ nhất thiết tạo ra việc làm mới là một niềm tin sai lầm. Nếu tiền được huy động thông qua thuế, thì như chúng ta đã phân tích, mỗi đô la mà chính phủ chi cho các công trình công cộng đồng nghĩa với việc có ít đi một đô la mà người nộp thuế sẽ chi tiêu cho các nhu cầu của chính họ. Và mỗi việc làm công cộng được tạo ra cũng có một việc làm tư nhân bị mất đi.

Nhưng giả sử các công trình công cộng không được chi trả bằng tiền thuế thì sao? Giả sử chúng được tài trợ thông qua việc chính phủ vay nợ hoặc in tiền? Khi đó, hậu quả mà chúng ta vừa mô tả dường như không xảy ra. Các công trình công cộng dường như được tạo ra từ một sức mua “mới”. Ta không thể nói rằng sức mua đó bị lấy đi từ người nộp thuế. Trong một thời gian ngắn, cả quốc gia dường như có được một thứ gì đó mà không phải trả giá.

Nhưng giờ, theo những gì chúng ta đã phân tích, hãy xét đến các hậu quả lâu dài. Những khoản nợ này cuối cùng vẫn phải được trả. Chính phủ không thể tiếp tục tích lũy nợ vô thời hạn; nếu cố làm vậy, một ngày nào đó, chính phủ sẽ phá sản. Như Adam Smith đã nhận định vào năm 1776: “Khi nợ công quốc gia đã tích lũy đến một mức độ nhất định, tôi e rằng không có trường hợp nào chúng được thanh toán công bằng và đầy đủ. Việc giải phóng nguồn thu ngân sách, nếu thực sự xảy ra, luôn là hệ quả của một vụ phá sản; đôi khi là phá sản công khai, nhưng luôn là một vụ phá sản thực sự, dù thường được ngụy trang bằng một sự thanh toán giả tạo.”

Khi chính phủ phải hoàn trả các khoản nợ đã tích lũy từ việc chi tiêu cho các công trình công cộng, họ tất yếu phải đánh thuế nặng hơn mức chi tiêu. Do đó, trong giai đoạn sau, chính phủ chắc chắn sẽ tiêu diệt nhiều việc làm hơn là tạo ra. Việc đánh thuế nặng không chỉ làm mất đi sức mua; nó còn làm suy yếu hoặc phá hủy các động lực sản xuất, từ đó làm giảm tổng của cải và thu nhập quốc dân.

Cách duy nhất để tránh kết luận này là giả định (mà những người ủng hộ chi tiêu công luôn làm) rằng các chính trị gia cầm quyền chỉ chi tiêu trong các giai đoạn suy thoái hoặc “giảm phát”, và sẽ nhanh chóng trả hết nợ trong những giai đoạn thịnh vượng hay “lạm phát.” Đây là một giả thuyết hấp dẫn, nhưng thật không may, các chính trị gia chưa bao giờ hành động như vậy. Hơn nữa, dự báo kinh tế rất bấp bênh, trong khi các áp lực chính trị lại có tính chất đặc thù khiến các chính phủ khó có thể hành động theo cách đó. Một khi đã bắt đầu chi tiêu thâm hụt, sẽ xuất hiện những nhóm lợi ích mạnh mẽ đòi hỏi duy trì chi tiêu thâm hụt trong mọi điều kiện.

Nếu không có nỗ lực trung thực nào để trả hết nợ đã tích lũy, và thay vào đó phải dựa vào lạm phát hoàn toàn, thì kết quả sẽ như những gì chúng ta đã mô tả. Vì cả quốc gia không thể có được gì mà không phải trả giá. Lạm phát thực chất chính là một hình thức đánh thuế. Đây có thể là hình thức tồi tệ nhất, vì thường gây thiệt hại nặng nề nhất cho những người có ít khả năng chi trả nhất. Nếu giả định lạm phát ảnh hưởng đều lên tất cả mọi người và mọi thứ (điều mà chúng ta đã thấy là không bao giờ đúng), thì nó sẽ tương đương với một loại thuế bán hàng cố định, áp dụng cùng một tỷ lệ phần trăm đối với tất cả hàng hóa, với mức thuế giống nhau trên bánh mì và sữa cũng như trên kim cương và lông thú. Hoặc có thể coi lạm phát như một loại thuế cố định, áp dụng tỷ lệ phần trăm giống nhau, không có miễn trừ, đối với thu nhập của mọi người. Đây là một loại thuế không chỉ đánh vào mọi chi tiêu của cá nhân mà còn vào tài khoản tiết kiệm và bảo hiểm nhân thọ của họ. Thực tế, đó là một hình thức đánh thuế lên vốn, không có miễn trừ, trong đó người nghèo phải trả tỷ lệ phần trăm thuế cao như người giàu.

Tuy nhiên, tình hình thậm chí còn tồi tệ hơn, vì như chúng ta đã thấy, lạm phát không thể và không bao giờ ảnh hưởng đều lên tất cả mọi người. Một số người sẽ chịu thiệt hại nhiều hơn những người khác. Người nghèo có thể bị đánh thuế do lạm phát với tỷ lệ phần trăm cao hơn người giàu. Bởi vì lạm phát là một loại thuế nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan thuế. Nó tấn công một cách tùy tiện, không theo hướng nào cụ thể. Mức thuế do lạm phát áp đặt không cố định: chúng ta không thể xác định trước mức thuế đó. Chúng ta biết mức thuế là bao nhiêu hôm nay, nhưng không thể biết nó sẽ ra sao vào ngày mai; và đến ngày mai, chúng ta cũng không thể dự đoán nó sẽ thay đổi thế nào.

Giống như mọi loại thuế khác, lạm phát có tác động sâu sắc đến các quyết định cá nhân và chính sách kinh doanh mà tất cả chúng ta phải tuân theo. Nó ngăn cản sự thận trọng và tiết kiệm. Nó khuyến khích sự phung phí, cờ bạc, và lãng phí liều lĩnh dưới mọi hình thức. Nó thường khiến đầu cơ trở nên có lợi hơn là sản xuất. Nó phá vỡ cấu trúc ổn định của các mối quan hệ kinh tế. Những bất công không thể bào chữa mà nó tạo ra đẩy con người đến những hành động tuyệt vọng. Nó gieo mầm cho chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản. Nó dẫn dắt con người đến việc đòi hỏi sự kiểm soát toàn trị. Và cuối cùng, nó kết thúc bằng sự vỡ mộng cay đắng và sụp đổ.


Đăng ngày

trong