Kinh tế học trong một bài học. Chương 4: Công trình công cộng đồng nghĩa với thuế

Tác giả: Henry Hazlitt

Chương 4. Công trình công cộng đồng nghĩa với thuế

Không có niềm tin nào dai dẳng và ảnh hưởng sâu rộng hơn trong thế giới ngày nay bằng niềm tin vào chi tiêu của chính phủ. Ở khắp nơi, chi tiêu của chính phủ được coi như liều thuốc chữa bách bệnh cho mọi căn bệnh kinh tế của chúng ta. Ngành công nghiệp tư nhân đang trì trệ một phần? Ta có thể giải quyết tất cả bằng chi tiêu chính phủ. Có thất nghiệp? Rõ ràng là do “sức mua tư nhân không đủ.” Giải pháp khắc phục cũng rõ ràng không kém. Tất cả chỉ cần chính phủ chi đủ để bù đắp “sự thiếu hụt”.

Một kho tài liệu khổng lồ đã được xây dựng dựa trên sự ngụy biện này, và như thường xảy ra với những học thuyết kiểu này, nó đã trở thành một phần trong một mạng lưới phức tạp các ngụy biện hỗ trợ lẫn nhau. Chúng ta chưa thể khám phá toàn bộ mạng lưới đó tại thời điểm này; chúng ta sẽ quay lại với các nhánh khác của nó sau. Nhưng tại đây, ta có thể xem xét “ngụy biện mẹ” đã sinh ra cả hệ thống ấy, gốc rễ chính của mạng lưới.

Mọi thứ chúng ta có được, ngoài những món quà miễn phí của thiên nhiên, đều phải được trả giá theo cách này hay cách khác. Thế giới đầy rẫy những người tự xưng là nhà kinh tế, vốn tràn ngập các kế hoạch nhằm đạt được cái gì đó mà không phải trả giá. Họ nói với chúng ta rằng chính phủ có thể cứ tiêu xài mà không cần đánh thuế; rằng chính phủ có thể tiếp tục chồng chất nợ mà không bao giờ phải trả, bởi vì “chúng ta nợ chính mình.” Chúng ta sẽ quay lại với những học thuyết kỳ lạ như vậy ở phần sau. Còn ở đây, tôi e rằng chúng ta sẽ phải thẳng thắn và chỉ ra rằng những giấc mơ đẹp đẽ đó trong quá khứ luôn bị đập tan bởi tình trạng vỡ nợ quốc gia hoặc siêu lạm phát. Ở đây, chúng ta cần nói một cách đơn giản rằng mọi khoản chi tiêu của chính phủ cuối cùng đều phải được trả bằng tiền thu được từ thuế; rằng việc trì hoãn ngày trả chỉ làm vấn đề thêm trầm trọng, và bản thân lạm phát cũng chỉ là một hình thức, thậm chí là một hình thức đặc biệt tàn nhẫn, của thuế.

Tạm gác lại mạng lưới các ngụy biện dựa trên việc vay nợ và lạm phát kinh niên của chính phủ để xem xét sau, chúng ta sẽ mặc định trong toàn bộ chương này rằng, dù sớm hay muộn, mỗi đô la chi tiêu của chính phủ đều phải được thu từ một đô la tiền thuế. Một khi chúng ta nhìn vấn đề theo cách này, những điều kỳ diệu được cho là tạo bởi sự chi tiêu của chính phủ sẽ hiện lên dưới một góc nhìn khác.

Một mức độ chi tiêu công nhất định là điều cần thiết để thực hiện các chức năng thiết yếu của chính phủ. Một số tiền nhất định cho các công trình công cộng — như đường phố, giao lộ, cầu cống và đường hầm, kho vũ khí và xưởng đóng tàu hải quân, các tòa nhà phục vụ cho cơ quan lập pháp, sở cảnh sát và sở cứu hỏa — là cần thiết để cung cấp những dịch vụ công thiết yếu. Những công trình công cộng này, vốn cần thiết vì chính lợi ích của chúng và được bảo vệ trên cơ sở đó, không phải là điều tôi đang bàn đến ở đây. Điều tôi quan tâm ở đây là những công trình công cộng được coi như là phương tiện để “cung cấp việc làm” hoặc tăng thêm của cải cho cộng đồng, những điều mà cộng đồng sẽ không có được nếu không có những công trình đó.

Một cây cầu được xây. Nếu nó được xây để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của công chúng, nếu nó giải quyết được vấn đề giao thông hoặc vấn đề vận tải mà không có cách nào khác giải quyết được, nói cách khác, nếu nó cần thiết hơn cả những thứ mà người nộp thuế sẽ tiêu tiền vào nếu như tiền ấy không bị đánh thuế, thì không có gì đáng phản đối. Nhưng một cây cầu được xây chủ yếu “để cung cấp việc làm” lại là một loại cầu khác. Khi cung cấp việc làm trở thành mục đích cuối cùng, nhu cầu thực tế trở thành mối quan tâm thứ yếu. “Các dự án” phải được phát minh ra. Thay vì chỉ nghĩ đến việc nơi nào cần phải xây cầu, những người chi tiêu của chính phủ bắt đầu tự hỏi nơi nào có thể xây cầu. Liệu họ có thể nghĩ ra lý do hợp lý nào để xây thêm một cây cầu nối Easton và Weston không? Và chẳng bao lâu sau, cây cầu đó trở nên hoàn toàn cần thiết. Những ai nghi ngờ sự cần thiết đó sẽ bị gạt sang một bên như những kẻ cản trở và phản động.

Có hai lập luận thường được đưa ra để biện hộ cho cây cầu, một trong số đó chủ yếu được nghe trước khi cây cầu được xây, và cái còn lại chủ yếu được nghe sau khi cây cầu đã hoàn thành. Lập luận đầu tiên là cây cầu sẽ cung cấp việc làm. Nó sẽ cung cấp, chẳng hạn, 500 việc làm trong một năm. Hàm ý rằng đây là những công việc lẽ ra đã không tồn tại nếu không có dự án này.

Đây là những gì được nhìn thấy ngay lập tức. Nhưng nếu chúng ta đã luyện cho mình khả năng nhìn vượt qua hệ quả trước mắt để thấy được hệ quả thứ cấp, và vượt qua những người được hưởng lợi trực tiếp từ một dự án của chính phủ để thấy những người bị ảnh hưởng gián tiếp, thì một bức tranh khác sẽ hiện ra. Đúng là một nhóm công nhân xây cầu cụ thể nào đó có thể nhận được nhiều việc làm hơn so với khi không có dự án. Nhưng cây cầu đó phải được trả bằng tiền thuế. Mỗi đô la chi cho cây cầu là một đô la bị lấy đi từ người nộp thuế. Nếu cây cầu tốn 1 triệu đô la thì người nộp thuế sẽ mất 1 triệu đô la. Họ sẽ bị mất số tiền đó, số tiền mà lẽ ra họ có thể chi cho những thứ họ cần nhất.

Do đó, cứ mỗi công việc công được tạo ra bởi dự án xây cầu thì lại có một công việc tư nhân bị phá hủy ở nơi khác. Chúng ta có thể thấy những người làm việc trên cây cầu. Chúng ta có thể quan sát họ làm việc. Lập luận về việc tạo ra việc làm của những người ủng hộ việc chi tiêu của chính phủ trở nên sống động và có lẽ thuyết phục đối với hầu hết mọi người. Nhưng còn có những điều khác mà chúng ta không nhìn thấy, bởi vì, than ôi, chúng chưa bao giờ được phép tồn tại. Đó là những công việc bị phá hủy bởi 1 triệu đô la bị lấy đi từ người nộp thuế. Tất cả những gì đã xảy ra, trong kịch bản lạc quan nhất, chỉ là một sự chuyển dịch việc làm do dự án mang lại. Nhiều công nhân xây cầu hơn; nhưng ít công nhân xe hơi, kỹ thuật viên radio, thợ may, và nông dân hơn.

Nhưng rồi chúng ta đi đến lập luận thứ hai. Cây cầu đã tồn tại. Giả sử rằng đó là một cây cầu đẹp, chứ không phải xấu xí. Nó đã ra đời nhờ vào phép màu của chi tiêu chính phủ. Nó sẽ ở đâu nếu những kẻ cản trở và phản động được toại nguyện? Sẽ chẳng có cây cầu nào cả. Đất nước sẽ nghèo đi đúng bằng chừng đó.

Một lần nữa, những người ủng hộ việc chi tiêu của chính phủ lại có ưu thế trong lập luận trước những người không thể nhìn xa hơn giới hạn vật lý của đôi mắt họ. Họ có thể nhìn thấy cây cầu. Nhưng nếu họ tự học cách tìm kiếm hậu quả gián tiếp cũng như trực tiếp, họ có thể một lần nữa nhìn thấy bằng con mắt của trí tưởng tượng những khả năng chưa bao giờ được phép tồn tại. Họ có thể nhìn thấy những ngôi nhà chưa được xây, những chiếc xe hơi và radio chưa được sản xuất, những chiếc váy và áo khoác chưa được may, thậm chí cả những loại thực phẩm chưa được trồng và bán. Để nhìn thấy những điều chưa được tạo ra này đòi hỏi một loại trí tưởng tượng mà không nhiều người có. Chúng ta có thể hình dung ra những vật thể không tồn tại ấy một lần, có lẽ, nhưng chúng ta không thể giữ chúng trong tâm trí lâu như cây cầu mà chúng ta đi qua mỗi ngày. Điều đã xảy ra chỉ là một thứ đã được tạo ra thay vì những thứ khác.

2

Tất nhiên, lý luận tương tự cũng áp dụng cho mọi hình thức công trình công cộng khác. Nó cũng áp dụng một cách chính xác, chẳng hạn, cho việc xây dựng nhà ở cho người thu nhập thấp bằng ngân sách nhà nước. Tất cả những gì xảy ra là tiền bị lấy đi thông qua thuế từ các gia đình có thu nhập cao hơn (và có lẽ một ít từ cả các gia đình có thu nhập thậm chí còn thấp hơn) để buộc họ phải trợ cấp cho những gia đình thu nhập thấp được chọn và cho phép họ sống trong những ngôi nhà tốt hơn với mức tiền thuê như cũ hoặc thậm chí thấp hơn trước.

Tôi không có ý định đi sâu vào tất cả những ưu và nhược điểm của nhà ở công ở đây. Tôi chỉ quan tâm đến việc chỉ ra lỗi sai trong hai lập luận thường được đưa ra nhất để ủng hộ nhà ở công. Một là lập luận rằng nó “tạo ra việc làm”; cái còn lại là nó tạo ra của cải mà nếu không có nhà ở công thì sẽ không được tạo ra. Cả hai lập luận này đều sai, vì chúng bỏ qua tổn thất gây ra bởi việc đánh thuế. Thuế dùng để xây nhà ở công phá hủy số việc làm trong các lĩnh vực khác tương đương với số việc làm nó tạo ra trong lĩnh vực nhà ở. Nó cũng dẫn đến tình trạng nhà tư nhân không được xây dựng, các máy giặt và tủ lạnh không được sản xuất, và vô số hàng hóa cùng dịch vụ khác không bao giờ được tạo ra.

Và tất cả những điều này không thể được biện minh bằng câu trả lời kiểu như nhà ở công không cần phải được tài trợ bằng khoản phân bổ vốn một lần, mà chỉ cần trợ cấp tiền thuê nhà hàng năm. Điều này đơn giản chỉ có nghĩa là chi phí được phân bổ trong nhiều năm thay vì tập trung vào một năm. Nó cũng có nghĩa là số tiền lấy từ người nộp thuế sẽ được chi ra trong nhiều năm thay vì tập trung vào một năm. Những chi tiết kỹ thuật như vậy không liên quan gì đến vấn đề chính.

Lợi thế tâm lý lớn nhất của những người ủng hộ nhà ở công là người ta có thể nhìn thấy những công nhân đang làm việc trên những ngôi nhà đang được xây, và những ngôi nhà được nhìn thấy khi chúng đã hoàn thành. Người dân sống trong đó, và tự hào dẫn bạn bè đi tham quan các căn phòng. Những việc làm bị phá hủy do đánh thuế để xây nhà thì không nhìn thấy được, cũng như những hàng hóa và dịch vụ đã không được tạo ra. Phải cần đến một nỗ lực tư duy tập trung, và mỗi lần nhìn thấy những căn nhà cùng những con người hạnh phúc sống trong đó, lại phải cần thêm một nỗ lực mới để nhớ rằng đã có một khối lượng của cải không được tạo ra. Liệu có gì đáng ngạc nhiên khi những người ủng hộ nhà ở công lại bác bỏ những lập luận phản biện – nếu được trình bày với họ – như thể đó chỉ là thế giới của trí tưởng tượng, là những phản đối thuần lý thuyết, trong khi họ chỉ tay vào thực tế của các dự án nhà ở công hiện có? Giống như một nhân vật trong vở kịch Thánh Jeanne của Bernard Shaw đã đáp lại khi được nghe về học thuyết của Pythagoras rằng Trái đất là hình cầu và quay quanh Mặt trời: “Thật là một kẻ ngốc! Sao ông ta không dùng mắt mà nhìn?”

Một lần nữa, chúng ta cũng phải áp dụng lý luận tương tự cho các dự án lớn như Cơ quan Thung lũng Tennessee (TVA). Ở đây, chính vì quy mô quá lớn, nên mối nguy của ảo ảnh thị giác còn lớn hơn bao giờ hết. Đây là một con đập hùng vĩ, một vòm thép và bê tông khổng lồ, “vĩ đại hơn bất cứ thứ gì mà tư bản tư nhân có thể xây dựng được”, là vật sùng bái của giới nhiếp ảnh, là thiên đường của những người theo chủ nghĩa xã hội, là biểu tượng thường được sử dụng nhất cho những phép màu của sự xây dựng, sở hữu và vận hành công. Đây là các máy phát điện và nhà máy điện vĩ đại. Ở đây, đó là cả một vùng lãnh thổ được nâng lên một tầm mức kinh tế cao hơn và thu hút các nhà máy và ngành công nghiệp mà nếu không có sự can thiệp đó thì đã không thể tồn tại. Toàn bộ quá trình đó được những người ủng hộ ca ngợi như thể một lợi ích kinh tế thuần túy, không hề có tổn thất hay đánh đổi nào kèm theo.

Chúng ta không cần bàn sâu ở đây về công trạng của TVA hay các dự án công tương tự. Nhưng lần này, chúng ta cần một nỗ lực đặc biệt của trí tưởng tượng, điều mà dường như ít người làm được, để nhìn vào mặt ghi nợ của bảng cân đối. Nếu thuế được lấy từ người dân và các công ty, rồi được chi cho một khu vực cụ thể trong đất nước, thì tại sao chúng ta lại ngạc nhiên, tại sao lại xem đó như một điều kỳ diệu, nếu khu vực ấy trở nên giàu hơn một cách tương đối? Ta cần nhớ rằng, các khu vực khác trong cả nước khi đó cũng sẽ trở nên nghèo đi tương đối. Cái vĩ đại đến mức “tư bản tư nhân không thể xây dựng được” thực chất đã được xây bằng vốn tư nhân — số vốn bị trưng thu thông qua thuế (hoặc, nếu tiền được vay, thì cuối cùng cũng sẽ phải bị trưng thu qua thuế). Một lần nữa, ta phải cố gắng tưởng tượng để thấy những nhà máy điện tư nhân, những ngôi nhà tư nhân, những chiếc máy đánh chữ và radio không bao giờ có cơ hội tồn tại bởi vì tiền đã bị lấy từ người dân trên khắp đất nước để xây nên Đập Norris đẹp như tranh.

3

Tôi đã cố ý chọn những ví dụ thuận lợi nhất về các chương trình chi tiêu công — tức là những chương trình được những người chi tiêu của chính phủ thúc đẩy thường xuyên và nhiệt thành nhất và được công chúng đánh giá cao nhất. Tôi chưa nói đến hàng trăm dự án lãng phí luôn được triển khai ngay khi mục tiêu chính là “tạo việc làm” và “giúp mọi người có công ăn việc làm.” Bởi vì khi đó, như chúng ta đã thấy, tính hữu ích của chính dự án chắc chắn sẽ trở thành mối quan tâm thứ yếu. Hơn nữa, công trình càng lãng phí, càng tiêu tốn nhiều nhân lực, thì lại càng tốt cho mục đích tạo thêm việc làm. Trong những hoàn cảnh như vậy, khả năng mà các dự án do bộ máy quan liêu đề xuất có thể mang lại mức gia tăng ròng về của cải và phúc lợi — tính trên mỗi đô-la chi tiêu — tương đương với những gì mà chính người nộp thuế có thể đạt được là điều rất khó xảy ra. Bởi lẽ, nếu họ được phép tự do mua sắm hoặc thuê làm những gì họ thật sự mong muốn, thay vì bị buộc phải nộp một phần thu nhập của mình cho nhà nước, thì hiệu quả kinh tế có thể đã cao hơn đáng kể.

Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.

Biên dịch: Phong trào Duy Tân.


Đăng ngày

trong