Tác giả: Eamonn Butler.
Dịch giả: Phạm Nguyên Trường. Hiệu đính: Nguyễn Đức Thành.
Chương 15. Tính thời sự của Trường phái Áo trong giai đoạn hiện nay
• Các nhà kinh tế học Trường phái Áo đã tung ra những lời chỉ trích đầy ấn tượng các lí thuyết kinh tế học dòng chính, giúp giải thích những hiện tượng như lạm phát đình đốn và chỉ ra những điểm yếu của chính sách dựa trên những mô hình kinh tế sai lầm và giả tạo.
• Trường phái Áo giải thích vì sao chúng ta có thể tin tưởng vào trật tự phi kế hoạch do thị trường tạo ra. Đồng thời, trường phái này còn chỉ ra những hậu quả xấu của những biện pháp can thiệp của chính phủ.
• Phương pháp tiếp cận của Trường phái Áo có thể giải thích và cung cấp giải pháp cho các vấn đề quan trọng hiện nay, như bảo vệ môi trường và suy thoái kinh tế.
Trường phái Áo đã có một số đóng góp đáng kể vào tư duy kinh tế học dòng chính – ví dụ, phân tích lợi ích biên và khái niệm chi phí cơ hội. Một số đóng góp khác của họ chắc chắn là đã gây được ảnh hưởng – ví dụ, lí thuyết về giá trị của Trường phái Áo hay sự chú ý của họ vào tính không đồng nhất của vốn, tầm quan trọng của thời gian trong quá trình sản xuất và cách giải thích của họ về nguồn gốc của lãi suất – mặc dù các nhà kinh tế học dòng chính thường không thừa nhận, mà coi đấy chỉ là cách nhấn mạnh khác nhau mà thôi. Hiện nay, cụ thể là sau vụ sụp đổ tài chính năm 2007, lãi suất đã tăng lên theo cách giải thích của Trường phái Áo về chu kì kinh doanh, mà cội nguồn của nó là sở thích theo thời gian; cách giải thích của trường phái này về sự xáo trộn mang tính phá hoại do lạm phát gây ra, và kết luận rằng tiền giấy và hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ là sự pha trộn đầy nguy hiểm.
Các nhà kinh tế học dòng chính cảm thấy khó có thiện cảm với quan điểm của Trường phái Áo về tầm quan trọng sống còn của tài sản cá nhân, coi đấy là nền tảng của trao đổi và giá cả, hay việc Trường phái Áo nhấn mạnh tầm quan trọng của chủ nghĩa cá nhân – và sự kiện là các đánh giá, sở thích, mong muốn, nhu cầu và hoàn cảnh rất đa dạng và không thể đoán trước được của cá nhân – trong phân tích kinh tế. Kết luận của Trường phái Áo, nói rằng các số liệu gộp và các công thức toán học của các nhà kinh tế học dòng chính là vô nghĩa, và tất nhiên là họ hoàn toàn không chấp nhận.
Một quan điểm khác của kinh tế học
Tuy nhiên, phương pháp tiếp cận của Trường phái Áo cung cấp cho chúng ta lời giải thích những sự kiện mà kinh tế học dòng chính không thể nào giải thích nổi. Lạm phát đình đốn – lạm phát gia tăng nhưng sản lượng sụt giảm – ví dụ như trong những năm 1970, lí thuyết chính thống Keynes – nói rằng lạm phát và các khoản chi tiêu của chính phủ sẽ kích thích phát triển và tạo thêm nhiều công ăn việc làm – đang giữ thế thượng phong lúc đó không thể giải thích nổi. Ngược lại, Trường phái Áo có thể giải thích một cách dễ dàng: Lạm phát làm rối loạn các tính toán kinh tế và dẫn đến những khoản đầu tư sai lầm, còn sự can thiệp của chính phủ lại làm suy yếu hoạt động kinh doanh và tăng trưởng.
Các nhà kinh tế học dòng chính sẵn sàng chấp nhận phê phán của Trường phái Áo, nói rằng các mô hình kinh tế vĩ mô và khái niệm về thị trường hoàn hảo chỉ là những khái niệm trừu tượng mang tính lí thuyết; nhưng, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng các nhà kinh tế học dòng chính tìm cách thiết lập các chính sách thực tiễn trên những cơ sở tưởng tượng như thế. Các nhà kinh tế học dòng chính cho rằng “thất bại của thị trường” có thể được “sửa chữa” bằng các quy định và biện pháp can thiệp. Nhưng làm sao các nhà chính trị biết khi nào thị trường “thất bại”? Và làm sao họ biết chắc rằng họ có thể làm tốt hơn thị trường?
Ví dụ như luật chống độc quyền. Các chính phủ thường can thiệp khi họ cảm thấy rằng một số công ty cụ thể nào đó bắt đầu “thống lĩnh” thị trường. Nhưng làm sao nhà nước có thể biết thế nào là cơ cấu thị trường “thích hợp”? Trong một số lĩnh vực, ví dụ, hệ thống cấp thoát nước, các công ti thường là nhỏ; ở những lĩnh vực khác, như sản xuất ô tô, thì các công ti thường là lớn; và cùng với thời gian và công nghệ, các công ti này cũng thay đổi. Chỉ có thị trường mới có thể quyết định công ti nào cần hoạt động mà thôi. Và dù thế nào, các nhà kinh tế học Trường pháo Áo nói, các công ti không thể phát triển lớn đến mức có thể nặn bóp được lợi nhuận độc quyền, vì lợi nhuận cao đơn giản là sẽ lôi kéo những người khác tham gia thị trường. Nói cho cùng, chính những “sự không hoàn hảo” đó đã thúc đẩy các doanh nhân. Tìm cách kiểm soát thị trường là các chính phủ đẩy thị trường vào tình trạng đình đốn.
Cũng cần phải nhắc các nhà kinh tế dòng chính rằng “các đại lượng gộp” mà họ đã dành rất nhiều phân tích toán học để nói về chúng là những thứ vốn đã sai ngay từ đầu. Trong hoàn cảnh khan hiếm, người ta phải lựa chọn, kết quả phụ thuộc hoàn toàn vào đánh giá của những con người cụ thể, trong không gian và thời gian chưa từng có trước, cũng như sau đó. Những thứ đó – tương tự niềm vui hay nỗi buồn – không thể được cộng vào nhau, không thể đưa lên đồ thị hay xử lí trong những phương trình. Và điều đó hiển nhiên là vô lí, ví dụ, khi nói đất nước cần nhiều khoản “đầu tư” hơn nữa khi vấn đề cốt yếu không phải là chúng ta chi tiêu bao nhiêu cho hàng hóa vốn, mà chi cho cái gì và ở đâu – tức là cơ cấu vốn.
Niềm tin vào thị trường được hồi phục
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo còn cung cấp nền tảng trí tuệ vững chắc cho những người tin rằng thị trường đáp ứng nhu cầu kinh tế của chúng ta tốt hơn là việc kiểm soát và lập kế hoạch của chính phủ. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo coi đời sống kinh tế là vấn đề phối hợp hành động của những con người rất khác nhau trên khắp hành tinh, để phản ứng lại với nhau và phản ứng lại những hoàn cảnh khu vực đang thay đổi rất nhanh. Thị trường, họ khẳng định, liên tục sử dụng, xử lí và hành động dựa vào thông tin phân tán, không đầy đủ và mang tính cá nhân và thậm chí là mâu thuẫn với nhau – một nhiệm vụ mà không có người lập kế hoạch ở trung ương nào kham nổi.
Ví dụ, mỗi ngày các nhà hàng ở New York cần bao nhiêu con gà và làm sao đưa được gà đến đó? Hội đồng cung cấp gà của chính phủ sẽ phải khảo sát các nhà hàng và khách hàng, hệ số cho các ngày lễ và thay đổi theo mùa vụ, hợp đồng với nông dân, cơ sở chế biến và công ti vận tải, và chắc chắn là còn nhiều thứ nữa. Tuy nhiên, thị trường được thúc đẩy bởi sự thay đổi của giá cả – cho thấy khi nào dư thừa, khi nào khan hiếm – sẽ tự động làm những việc đó, suốt ngày này sang ngày khác. Không ai kiểm soát được tất cả, nhưng đấy là công việc không được lập kế hoạch, rộng lớn, nhưng có phối hợp. Đó là sức mạnh đáng kể của thị trường.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng cạnh tranh là quá trình khám phá – khám phá những thứ mà các khách hàng khác nhau thực sự muốn và biện pháp cung cấp những món hàng đó trong không gian và thời gian cụ thể, với ít chi phí nhất. Nó nhắc nhở chúng ta rằng cần phải tạo điều kiện cho thị trường cạnh tranh và hạn chế đến mức thấp nhất rào cản đối với người mới bước chân vào thương trường – hai việc mà các quy định của nhà nước thường cản trở. Nó nhắc nhở chúng ta về vai trò năng động của các doanh nhân trong việc tiếp nhận và đánh giá thông tin thị trường nằm rải rác khắp nơi, chấp nhận rủi ro và hành động theo dự đoán của họ về nhu cầu trong tương lai của khách hàng – một việc chỉ có thể xảy ra trong khuôn khổ các quyền sở hữu được bảo vệ, nguyên tắc pháp quyền và thuế khóa thấp.
Phê phán hành động của chính phủ
Người ta thường cho rằng các chính phủ có thể làm bất cứ việc gì – thậm chí lèo lái thị trường theo ý họ – và làm tốt. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nhắc nhở chúng ta rằng không phải như vậy. Trước khi can thiệp, chính phủ cần phải nói rõ lí do, vì sao cần can thiệp và họ có thể thực sự cải thiện tình hình bằng cách nào. Tuy nhiên, đó không phải là nhiệm vụ dễ dàng, vì hầu hết các vụ can thiệp vào thị trường tự do đều tạo ra những hậu quả không lường trước được, mà lại thường là những hậu quả cực kì xấu. Và bản thân các chính phủ cũng hoàn toàn không phải là khôn ngoan và duy líý: Chính phủ cũng là đối tượng vận động hành lang của các nhóm lợi ích và xây dựng đế chế của các chính trị gia và quan chức.
Ví dụ luật về lương tối thiểu dường như làm cho đời sống của những người lao động nghèo nhất được cải thiện, nhưng trên thực tế, luật này làm cho người sử dụng lao động không tiếp tục thuê các công nhân có tay nghề thấp, và do đó làm cho những người nghèo và thanh niên chưa được đào tạo càng khổ thêm. Chỉ có những người có đồng lương cao hơn lương tối thiểu là được lợi, vì không còn bị những người có mức lương thấp hơn cạnh tranh và đấy có thể là những người dẫn đầu cuộc vận động cho bộ luật này. Tương tự, các chính phủ có thể dễ dàng bị các công ti có uy tín thuyết phục rằng phải dùng các quy định để bảo vệ họ khỏi “những tên cao bồi”, trong khi, trên thực tế, vị trí trên thị trường của họ đang được bảo vệ, không để cho những người mới tham gia thương trường đe dọa.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo còn nhắc chúng ta rằng cần phải nghi ngờ tất cả các chính sách dựa trên các đại lượng gộp và chỉ số do người ta đề xuất. Ví dụ, chính sách tiền tệ của chính phủ với mục đích là Chỉ số Giá Tiêu dùng ổn định, nhưng kết quả lại phụ thuộc rất nhiều vào giá cả của những món hàng được đưa vào danh mục, vì thực tế là giá cả từng món hàng luôn luôn dao động, lên xuống liên tục. Chúng ta cũng không được nghĩ rằng chính phủ có thể kích thích tăng trưởng bằng cách điều tiết “nhu cầu”, vì tổng cầu cũng có nhiều thứ khác nhau và xung đột với nhau. Dù thế nào thì đối với các nhà kinh tế học Trường phái Áo, các khoản đầu tư của chính phủ là thuật ngữ sai, vì khi giải ngân các “khoản đầu tư” của mình là chính phủ đánh thuế các doanh nhân sáng tạo, những người đáng lẽ có thể dùng những đồng tiền đó để đầu tư vào lĩnh vực nào đó có năng suất cao hơn. Tương tự, khi người dân kêu gọi chính phủ tăng các khoản chi tiêu để tăng cầu là họ quên không nghĩ tới những khoản chi phí kinh tế lớn hơn do thuế khóa, quy định và xói mòn quyền sở hữu tư nhân gây ra.
Quan điểm của Trường phái Áo về các vấn đề đương thời
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2007 và sau đó, một lần nữa, đã làm cho người ta quan tâm tới các tư tưởng của Trường phái kinh tế học Áo, coi đó là cách giải thích hấp dẫn duy nhất về chu kìkì bùng-vỡ – mà theo quan điểm của Trường phái Áo là do tín dụng gây ra. Ngày càng có nhiều người quan tâm tới các giải pháp của họ: Kiểm soát chặt chẽ hơn lượng tiền giấy (hay thay thế tiền giấy bằng những loại tiền mà các chính phủ không thể làm cho mất giá: Sau khi tách ra khỏi vàng, đồng Pounds và USD đã mất giá tới 98%) và các ngân hàng phải có tỉ lệ dự trữ cao hơn (có lẽ thậm chí là 100%). Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng nỗ lực của chính phủ nhằm kiểm soát khủng hoảng bằng những khoản vay lớn hơn không phải là giải pháp. Thực ra, đó là nguyên nhân đầu tiên tạo ra khủng hoảng.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo không tuyên bố rằng mình là chuyên gia về khoa học môi trường, nhưng, một lần nữa, họ cho rằng thị trường có nhiều khả năng giải quyết vấn đề của chúng ta hơn là chính phủ. Chúng ta có đang cạn kiệt những nguồn tài nguyên quan trọng sống còn, ví dụ, dầu mỏ, như nhiều người lo sợ hay không? Không, các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói: Chúng ta tìm được nhiều mỏ dầu hơn bất kì giai đoạn nào khác trong lịch sử. Nhưng khi nhu cầu tăng và cần những công nghệ khai thác phức tạp hơn thì giá dầu phải tăng, mà ảnh hưởng đặc biệt của nó là hạn chế cầu và thúc đẩy người ta tìm kiếm những lựa chọn thay thế rẻ hơn. Thời kì đồ đá đã không kết thúc vì hết đá, mà nó kết thúc vì người ta đã tìm được nhiều lựa chọn thay thế ít tốn kém hơn. Các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng thị trường có thể bảo vệ và sử dụng một cách tiết kiệm những nguồn tài nguyên có giá trị – như các nguồn năng lượng, khu vực đánh cá, nguồn nước, động vật quý hiếm, không khí trong sạch, công viên và rừng – trong khi sở hữu công cộng chắc chắn sẽ dẫn tới lạm dụng, lãng phí và phá hoại. Họ cho rằng cần mở rộng vai trò của thị trường, chứ không tìm cách kiểm soát thị trường.
Tương lai của Trường phái Áo
Mặc cho tất cả những chỉ trích đầy ấn tượng của họ và mặc dù số người quan tâm trong thời gian gần đây đã gia tăng, các tư tưởng của Trường phái kinh tế học Áo vẫn bị coi là những phụ gia bên cạnh dòng chính mà thôi. Có lẽ đấy là do tuyệt đại đa số vẫn tin tưởng vào quyền lực của các chính phủ trong việc xác định và khắc phục các vấn đề của chúng ta. Hay, có lẽ người ta thấy khó tưởng tượng được rằng thị trường có thể giải quyết các vấn đề vô cùng to lớn và khó khăn mà không cần phải có chỉ đạo và kiểm soát từ trung ương.
Một lần nữa, trong một số trường hợp, có thể nhiều người vẫn còn nghi ngờ phương pháp diễn dịch của Trường phái Áo, chứ không dựa vào xây dựng lí thuyết, quan sát và kiểm nghiệm, vốn là những phương pháp đặc trưng của khoa học. Hoặc có thể là những giải pháp chính sách do các nhà kinh tế học hàng đầu của Trường phái Áo đưa ra quá cứng rắn.
Tuy nhiên, trong số các nhà kinh tế học tự nhận là thuộc Trường phái Áo, hay ít nhất, chấp nhận phần lớn phương pháp tiếp cận của Trường phái Áo cũng có rất nhiều quan điểm khác nhau. Mises, Rothbard và những môn đồ của họ (đặc biệt ở Mĩ) khăng khăng đòi áp dụng phương pháp diễn dịch nghiêm ngặt và chủ trương không can thiệp bất di bất dịch. Nhưng, một số người khác (đặc biệt ở Anh và châu Âu), những người nằm trong vòng ảnh hưởng của Hayek, sẵn sàng thừa nhận rằng đo lường, quan sát và kiểm nghiệm có tác dụng trong việc mở rộng kiến thức của các nhà kinh tế học – trong khi, họ chấp nhận rằng việc sử dụng chúng để nghiên cứu những con người luôn luôn thay đổi sẽ không mang lại điều gì chắc chắn như khi sử dụng để nghiên cứu các khách thể tự nhiên. Nhóm này, cởi mở hơn và dường như ít có thái độ bè phái đối với những người ở bên ngoài, đã làm các nhà kinh tế học dòng chính xem xét lại các tập hợp đơn giản, các mô hình và công thức đơn giản và bắt đầu điều chỉnh vai trò của doanh nghiệp, thời gian, địa điểm, giá trị, thông tin rải rác và các quan điểm khác của Trường phái Áo vào trong các công trình phân tích của mình. Khi nền kinh tế toàn cầu – hoặc, có lẽ nên nói catallaxy [quá trình tương tác và trao đổi, trong đó mọi người khám phá và thử nghiệm tri thức mới – ND] – trở nên rộng hơn, đa dạng hơn, nhẹ nhàng hơn, nhanh hơn, phức tạp hơn và khó đưa vào mô hình hơn, dường như ảnh hưởng của các tư tưởng của Trường phái Áo sẽ tiếp tục phát triển.
Vài dòng tiểu sử
Carl Menger (1840-1921)
Carl Menger sinh ra trong một gia đình có ba người con trai có khả năng thiên bẩm về học thức, lúc đó đang sinh sống ở Neu-Sandec, Galicia, nằm trong đế quốc Áo-Hung (hiện nay là Nowy Sacz, thuộc Ba Lan). Cha ông là luật sư, còn mẹ ông là con gái của một thương gia giàu có.
Menger học luật ở Prague và Vienna, nhận bằng tiến sĩ ở Kraków, năm 1867. Trong khi viết báo về thị trường ở Lviv (hiện nay thuộc Ukraine) và Vienna, ông rút ra kết luận rằng việc xác định giá cả trong thế giới thực diễn ra không như lí thuyết kinh tế học nói. Vì thế, ông bắt đầu nghiên cứu kinh tế học, và năm 1871, cho xuất bản cuốn Những nguyên lí của kinh tế học, khơi mào cho Trường phái Áo. Trong khi tấn công Thuyết giá trị lao động của Marx, tác phẩm này chỉ ra rằng giá trị là khái niệm chủ quan, đồng thời phát triển tư tưởng về lợi ích biên, coi đây là lời giải thích về các lựa chọn kinh tế.
Menger làm gia sư cho Hoàng thái tử Áo, Đại công tước Rudolf von Hapsburg, suốt mấy năm liền, trong đó có những chuyến hộ tống ông ta đi vòng quanh các nước châu Âu. Sau khi quay lại Vienna, ông làm giáo sư cho đến khi nghỉ hưu vào năm 1903, ông đã gây ra cuộc tranh luận khốc liệt, gọi là Methodenstreit (bàn về phương pháp), bằng cách khăng khăng nói rằng khoa học xã hội không thể làm ra được “quy luật” và dự đoán bởi vì các môn học này làm việc với con người chứ không phải với đồ vật, nhưng từ những nguyên tắc hành động của con người có thể rút ra được những phát hiện hữu ích.
Khi làm trong Ủy ban về hệ thống tiền tệ Áo, ông đã đưa được ra những nhận thức mới về bản chất của tiền, với khẳng định rằng giá trị của tiền là món hàng hoá trao đổi, rằng tiền phát triển vì nó tạo thuận lợi cho buôn bán và trao đổi, và rằng trong quá khứ và hiện nay tiền không cần các chính phủ phát triển và bảo vệ.
Friedrich von Wieser (1851-1926)
Friedrich von Wieser là một trong những chủ soái đầu tiên của Trường phái Áo. Ông phát triển lí thuyết về chi phí của Trường phái Áo, chỉ ra tính chủ quan của chi phí và phát triển tư tưởng về chi phí cơ hội.
Ông là một trong số ít nhà kinh tế học Trường phái Áo sinh ra ở Vienna. Cha ông vốn là một quan chức cao cấp ở thành phố này. Wieser học luật và xã hội học ở Trường Đại học Tổng hợp, sau đó đi làm cho Chính phủ Áo.
Tương tự Böhm-Bawerk (sau này là trở thành em rể của ông), Wieser nghiên cứu dưới sự hướng dẫn của các nhà tư tưởng có thâm niên thuộc Trường phái Lịch sử, trong đó có Wilhelm Roscher ở Leipzig, nhưng Menger đã lôi kéo được ông. Năm 1884, ông bắt đầu giảng dạy tại Đại học Prague, và hoàn thành tác phẩm đầu tiên của mình, Giá trị tự nhiên (Natural Value – 1889) ở thành phố này. Giá trị tự nhiên được xây dựng dựa vào chủ nghĩa chủ quan và sự phân tích lợi ích biên của Menger và chỉ ra rằng chi phí cũng không phải là đại lượng khách quan, mà là đánh giá cá nhân. Ông nhận xét rằng khi ta đứng trước lựa chọn giữa những cái mình mong muốn, nhưng là những lựa chọn thay thế lẫn nhau, người ta phải xem xét không chỉ chi phí của lựa chọn, mà còn giá trị của cái mà họ phải từ bỏ để có thể nhận được cái mà mình chọn – ngày nay chúng ta gọi là chi phí cơ hội.
Wieser cũng phát triển lí thuyết quy đổi của Trường phái Áo – giải thích rằng, giá của hàng hóa vốn được xác định không phải bởi chi phí để làm ra chúng, mà theo giá trị dự kiến của sản phẩm mà chúng tạo ra. Trong tác phẩm Kinh tế học Xã hội (Social Economics – 1914) ông tìm cách áp dụng lí thuyết này vào thế giới thực.
Năm 1903, Wieser trở lại Vienna để thay thế Carl Menger sau khi ông này về hưu. Trong khi làm ở đấy, ông đã giúp định hình các tư tưởng của các nhà kinh tế học Trường phái Áo thuộc “làn sống thứ hai”, như Ludwig von Mises.
Eugen von Böhm-Bawerk (1851-1914)
Trong buổi sơ khai, Eugen von Böhm-Bawerk là nhân vật hàng đầu của Trường phái Áo. Ông xây dựng lí thuyết của Trường phái Áo về lãi suất, đầu tư và vốn, và xác định tầm quan trọng của thời gian trong quy trình sản xuất. Ông cũng có những ý kiến phê bình đầy sức mạnh quan điểm của Karl Marx về những vần đề này.
Böhm-Bawerk sinh ở Brünn, Moravia, thuộc lãnh thổ Áo-Hung (nay là Brno của Cộng hòa Czech). Ông học luật ở Vienna, tại đây, ông đã đọc tác phẩm Những nguyên lí của kinh tế học của Carl Menger và trở thành một người ủng hộ kiên định tư tưởng của Menger. Chính ở Vienna, ông cũng đã gặp Friedrich von Wieser, người đã trở thành nhân vật thứ ba trong giai đoạn đầu của Trường phái Áo.
Sau khi ra trường, ông vào làm cho Bộ Tài chính ở Vienna, nhưng năm 1881 thì chuyển sang giảng dạy ở Innsbruck. Trong giai đoạn này, ông cho xuất bản công trình đồ sộ Tư bản và Lợi tức (Capital and Interest) gồm hai tập. Ông giải thích rằng lãi suất phản ánh sở thích theo thời gian của người dân – sự kiện là người ta thích có đồ vật ngay bây giờ hơn là trong tương lai và đòi trả tiền thì mới hoãn lại việc tiêu dùng lại. Điều này, ông nghĩ, là rất quan trọng đối với các quyết định đầu tư, vì tất cả các quy trình sản xuất đều cần thời gian. Các quy trình dài hơn chỉ có ý nghĩa nếu sản phẩm cuối cùng được đánh giá cao hơn.
Năm 1889, ông trở lại Bộ Tài chính để phác thảo kế hoạch cải cách thuế khóa và trở thành Bộ trưởng Tài chính Áo vào năm 1895, và hai lần nữa vào các năm 1897 và 1900-1904. Ông đã xóa bỏ các khoản trợ cấp và kiên quyết giữ bản vị vàng và ngân sách cân bằng. Năm 1984, hình ảnh của ông được in trên tờ 100 Schilling của Áo và tồn tại cho đến khi đồng Euro được đưa vào sử dụng vào năm 2002.
Ludwig von Mises (1881-1973)
Ludwig von Mises là nhà kinh tế học nổi bật trong “làn sóng thứ hai”, ông đã sử dụng phân tích lợi ích biên của Menger để trau chuốt lí thuyết về tiền, ông còn nghiên cứu chu kì kinh doanh và giải thích kinh tế như là môn khoa học diễn dịch chứ không phải quy nạp.
Mises sinh ra ở Lemberg, Galicia, thuộc đế chế Áo-Hung (nay là Lviv, Ucraina), cha ông quản lí các dự án đường sắt ở đấy. Ban đầu ông là người theo cánh tả, nhờ tác phẩm Những nguyên lí của kinh tế học của Menger mà ông phát hiện được tầm quan trọng của đánh giá cá nhân và thị trường tự do. Ông tham gia các hội thảo của Böhm-Bawerk ở Vienna, và quan tâm tới lí thuyết về tiền. Năm 1912, chỉ mới 31 tuổi, ông đã cho xuất bản tác phẩm Lí thuyết Tiền tệ và Tín dụng (The Theory of Money and Credit), dùng phân tích lợi ích biên để chỉ ra tiền – như một phương tiện trao đổi – được đánh giá như thế nào. Phương pháp này tạo điều kiện cho ông giải thích chu kì kinh doanh – xuất hiện khi tín dụng gia tăng đột biến làm đảo lộn cân bằng tế nhị giữa cung và cầu tiền. Năm 1926, cùng với F. A. Hayek, ông thành lập viện nghiên cứu về vấn đề này.
Mises từng làm kinh tế trưởng tại Phòng Thương mại ở Vienna; từ năm 1913 đến năm 1934, ông đã tổ chức các cuộc hội thảo tư nhân tại trường Đại học Tổng hợp Vienna. Tác phẩm Chủ nghĩa xã hội (Socilalism – 1922) của ông chỉ ra rằng nếu không có giá cả, xã hội xã hội chủ nghĩa sẽ không bao giờ có thể đưa ra những lựa chọn duy líý về mặt kinh tế.
Sau khi Hitler trỗi dậy, Mises chuyển sang Thụy Sĩ, rồi sau đó đến Mĩ. Ở đây, ông đã viết tác phẩm Hành động con người (Human Action – 1949), giải thích rằng kinh tế học là môn hoa học diễn dịch chứ không phải quy nạp. Ông nhận xét rằng, vì các nhà kinh tế học làm việc với các đánh giá của cá nhân, cho nên họ không bao giờ có thể đưa ra được những tiên đoán như các nhà vật lí học. Những hiểu biết thấu triệt về kinh tế xuất phát từ việc tìm ra những hậu quả mang tính logic từ những sự thật hiển nhiên về các lựa chọn và hành động.
F. A. Hayek (1889-1992)
Friedrich Hayek là người cực kì uyên bác, ông nghiên cứu chu kì kinh doanh, đồng thời giải thích vai trò quan trọng của thông tin trên thị trường và chỉ ra vì sao các xã hội tự do có thể thịnh vượng mà không cần kế hoạch hóa tập trung. Là con của một bác sĩ ở Vienna, cả ông nội lẫn ông ngoại của Hayek đều là các học giả nổi tiếng, còn Wieser và Böhm-Bawerk thì là bạn bè của gia đình. Sau khi phục vụ trong quân đội Áo-Hung trong giai đoạn chiến tranh, Hayek bảo vệ thành công luận án tiến sĩ luật và tiến sĩ khoa học chính trị ở Vienna. Wieser giới thiệu ông với Mises. Ông cùng với Mises nghiên cứu chu kì kinh doanh và đã được trao Giải Nobel về kinh tế học cho những công trình nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Năm 1931, ông bắt đầu giảng dạy tại Trường Kinh tế London (LSE) và được nhận quốc tịch Anh vào năm 1938. Trong giai đoạn LSE đi sơ tán vì chiến tranh, Keynes tìm cho Hayek một chỗ làm việc ở Cambridge, đây chính là nơi ông viết tác phẩm Đường về nô lệ (The Road to Serdom), phê phán gay gắt chế độ toàn trị. Hayek bắt đầu kết luận rằng kế hoạch hóa tập trung là không thể thực hiện được. Thông tin kinh tế mà những người lập kế hoạch cần nằm rải rác khắp nơi, không đầy đủ, quá nhiều và phù du. Nó nằm ngoài sự hiểu biết một con người, nhưng nó thông báo kế hoạch cá nhân của hàng triệu người, chính thị trường là tác nhân phối hợp hành động của những người như thế.
Năm 1950, Hayek chuyển đến Đại học Chicago (Mĩ). Đây là nơi ông tiến hành tìm kiếm giới hạn của phương pháp khoa học trong việc nghiên cứu xã hội, và tiếp tục phát triển quan điểm của mình, nói rằng các thiết chế của nhân loại tiến hoá một cách tự nhiên, mà không cần mệnh lệnh từ trung ương.
Tư tưởng của Hayek nói rằng chính phủ tự do phải duy trì các quy tắc của công lí chứ không phải là quản lí xã hội được trình bày trong tác phẩm Hiến pháp Tự do (The Constitution of Liberty – 1960). Năm 1992 ông chuyển đến Đại học Freiburg (Đức), đây là nơi ông trau chuốt những tư tưởng này trong tác phẩm Luật, Lập pháp và Tự do (Law, Legislation and Liberty).
Murray Rothbard (1926-1995)
Murray Rothbard là nhà tư tưởng hàng đầu của Trường phái Áo thuộc “làn sóng thứ ba”, là người – dựa vào các tư tưởng của Mises – lập ra chủ nghĩa cá nhân triệt để và bài bác mọi sự can thiệp, mà ông gọi là chủ nghĩa tư bản không chính phủ.
Sinh ra ở New York, năm 1945, Rothbard tốt nghiệp đại học về toán học và kinh tế học ở Đại học Columbia; và năm 1956 thì bảo vệ thành công luận án Tiến sĩ về kinh tế học. Trong thời gian đó, được những ý tưởng về thị trường tự do của người thầy là George Stigler khuyến khích, ông phát hiện ra Quỹ Giáo dục Kinh tế (FEE) và gặp Ludwig von Mises ở đây. Tác phẩm Hành động con người (Human Action – 1949) – luận cứ bảo vệ thị trường tự do hợp logic – đã có ảnh hưởng rất lớn đối với ông, và từ đó ông thường xuyên tham gia các buổi hội thảo do Mises tổ chức ở Đại học New York.
Một dự án nhằm giải thích tác phẩm Hành động con người bằng những thuật ngữ đơn giản dẫn đến tác phẩm của Rothbard Con người, Nền kinh tế và Nhà nước (Man, Economy, and State – 1962). Tác phẩm này đưa phương pháp diễn dịch của Mises và kết luận của tư tưởng tự do kinh doanh (laissez-faire) vào những lĩnh vực mới, khẳng định tính ưu việt của thị trường tự do so với những biện pháp can thiệp của chính phủ, thậm chí ngay cả trong lĩnh vực quốc phòng, cảnh sát, và in tiền. Quá trình phát triển lí thuyết của Mises về hành vi đã đề cập nhiều tư tưởng về kì vọng duy lí mà sau này đã giúp Robert Lucas giành được Giải Nobel.
Sử dụng các hàm ý của thuyết chu kì kinh doanh của Trường phái Áo, Rothbard khẳng định rằng cần phải sử dụng bản vị vàng và hoạt động ngân hàng với dự trữ 100% thì mới tránh được nguy cơ tăng trưởng tín dụng nóng đầy tai họa trong tương lai và giải thích Cuộc Đại suy thoái theo các thuật ngữ của thuyết chu kì tín dụng của Trường phái Áo. Rothbard tin rằng, tương tự kinh tế học, đạo đức học cũng có nguồn gốc từ bản chất con người và có thể được diễn dịch theo lối duy lí. Ông ủng hộ chủ nghĩa tự do cá nhân tuyệt đối, trên quan niệm cho rằng chủ thể của mọi thứ là cá nhân và cá nhân có quyền sở hữu chính mình.
Israel Kirzner (1930-)
Israel Kirzner phát triển tư tưởng của Trường phái Áo về tinh thần nghiệp chủ, chỉ ra cho người ta thấy vì sao tinh thần nghiệp chủ lại quan trọng đối với hệ thống thị trường và quan trọng đến mức nào. Kirzner, là con của một giáo sĩ Do Thái giáo và nhà nghiên cứu Kinh Talmud, sinh ra ở London và học ở Cape Town, sau đó mới chuyển đến sống ở New York. Vừa là giáo sĩ Do Thái giáo vừa là nhà nghiên cứu Kinh Talmud, ông còn giải thích bản chất đạo đức của thị trường.
Đối với Kirzner, bản chất của tinh thần nghiệp chủ là tỉnh táo: Tỉnh táo không chỉ đối với cải tiến và điều chỉnh, tức là những thứ có thể tạo ra các quy trình và sản phẩm tốt hơn và rẻ hơn, mà còn là dự đoán chính xác món hàng nào sẽ có sức hấp dẫn đối với người tiêu dùng. Trong thị trường toàn cầu luôn luôn thay đổi, đây là nhiệm vụ khó khăn và đầy rủi ro, nhưng các doanh nhân được thúc đẩy, dù có thách thức, bởi khả năng (vì không chắc chắn) kiếm được lợi nhuận nếu họ đoán đúng và cung cấp những món hàng mà dân chúng muốn.
Do đó, lợi nhuận có chức năng xã hội quan trọng. Nó tưởng thưởng và khuyến khích mọi người – và ở mức độ nào đó, tất cả chúng ta đều là doanh nhân – tỉnh táo để nhận diện những khoảng trống và cơ hội đang mở ra trong lúc thị trường luôn luôn rối loạn. Nó giúp duy trì cân bằng cung cầu và phối hợp các hoạt động của con người. Doanh nhân khám phá ra cơ hội và có quyền hưởng lợi nhuận theo châm ngôn đơn giản: “Tới trước thì được trước”. Tuy nhiên, khám phá của họ mang lại lợi ích cho tất cả chúng ta.
Kirzmer nói rằng khả năng phát hiện và lợi ích xã hội sẽ gia tăng nếu thị trường cởi mở và có tính cạnh tranh. Ngược lại, quy định làm cho doanh nhân không còn cơ hội và động lực để luôn luôn tỉnh táo và khám phá, còn sự can thiệp của chính phủ thì hướng họ vào những hoạt động ít hiệu quả hơn.
