Trường phái kinh tế học Áo – Lược khảo. Chương 8: Thời gian, [quá trình] sản xuất, vốn và lợi tức

Tác giả: Eamonn Butler.

Dịch giả: Phạm Nguyên Trường. Hiệu đính: Nguyễn Đức Thành.

Chương 8. Thời gian, [quá trình] sản xuất, vốn và lợi tức

 •           Tất cả các quá trình sản xuất đều cần thời gian. Phải bỏ ra bao nhiêu thời gian để sản xuất một sản phẩm cụ thể phụ thuộc không chỉ vào việc người ta đánh giá sản phẩm cuối cùng như thế nào, mà còn phụ thuộc vào việc người ta coi thời gian có giá trị tới mức nào.

 •           Sở thích theo thời gian – hiện nay người sẵn sàng từ bỏ bao nhiêu để có thể được tưởng thưởng lớn hơn trong tương lai – là nguồn gốc của lợi tức. 

•           Vì sản xuất đòi hỏi thời gian, sự thay đổi của sự kiện hay sở thích của con người có thể dẫn đến kết quả là các nguồn lực bị lãng phí. Khi nói về tài sản vốn thì quan trọng không phải là chúng ta có bao nhiêu tiền, mà vốn có cơ cấu như thế nào. 

Các doanh nhân có thể được thúc đẩy bởi lợi nhuận, nhưng trên thực tế, họ là đầy tớ của người tiêu dùng. Chính nhu cầu của người tiêu dùng sẽ quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào. 

Cái mà các nhà kinh tế học gọi là tư liệu sản xuất – như nhà máy, máy móc, dụng cụ, thiết bị, phương tiện buôn bán cộng với tất cả các thành tố được sử dụng trong bất kì quy trình sản xuất nào – chỉ có một mục đích. Và mục đích là tạo ra hàng hoá cuối cùng mà chúng ta sử dụng hay tiêu thụ – gọi là hàng tiêu dùng như chocolate, máy sấy tóc, bút, bia, báo giấy, đồ chơi và tất. Không ai muốn tư liệu sản xuất chỉ là tư liệu sản xuất, mà họ muốn chúng tạo ra hàng hóa tiêu dùng. Đối với chúng ta, giá trị của tư liệu sản xuất là do giá trị hàng hóa tiêu dùng mà chúng tạo ra – hay chí ít, chúng ta kì vọng là chúng sẽ tạo ra. 

Đầu tư nhằm nâng cao năng suất lao động 

Tại sao chúng ta lại bận tâm và mất tiền xây dựng tư liệu sản xuất? Vì chúng ta hi vọng rằng chúng sẽ tiết kiệm cái mà chúng ta đánh giá cao – thời gian và công sức. Xin sử dụng ví dụ của Mises, một người có thể bắt đủ cá để ăn bằng cách lội xuống suối và bắt bằng tay. Nhưng người đó có thể dùng lưới để bắt cá, dễ hơn hẳn. Lưới sẽ làm cho công sức của người bắt cá trở nên hiệu quả hơn hẳn. 

Tất nhiên, đan lưới cũng đòi hỏi thời gian và sức lao động; ngoài ra, cần phải tìm vật liệu và làm thành sợi để có thể đan lưới. Nhưng, các cá nhân có thể tính toán rằng cần đầu tư thời gian và công sức, vì nó sẽ làm giảm thời gian và công sức mà sau này họ sẽ phải bỏ ra. Thật vậy, nó có thể giúp họ bắt được nhiều cá hơn trong khoảng thời gian ngắn hơn, họ có thể bán cá cho những người khác để lấy tiền mặt hay đổi lấy thứ gì khác mà họ cho là có giá trị. Hoặc họ có thể bắt những thứ thú vị hơn – ví dụ, cá biển – mà chỉ dùng tay thì không thể bắt được, tức là tăng thêm giá trị mà quá trình đánh bắt cá của họ tạo ra. 

Tính toán về việc có đan lưới hay không, không phải hoàn toàn đơn giản. Muốn dành thời gian cần thiết để đan lưới, người đó phải nhịn đói một thời gian hay phải dự trữ đủ cá để sống trong thời gian đó. Họ có thể cần nhiều cá hơn để trao đổi với những người khác lấy các vật liệu mà họ cần để đan lưới. Và họ cần phải tin rằng, trên thực tế, lưới sẽ tạo được kết quả mà họ đã dự kiến. Hôm nay chúng ta có thể nói rằng họ cần tiền để sống và đầu tư vào tư liệu sản xuất tốt là lưới đánh cá và rằng họ đang nghĩ rằng đầu tư, trên thực tế, sẽ làm cho họ có lời.

 Đầu tư được thúc đẩy bởi giá trị tiêu dùng 

Một lần nữa, thị trường sẽ tưởng thưởng cho những người dự đoán chính xác nhất hàng hóa tiêu dùng mà mọi người thực sự mong muốn và họ sẵn sàng trả bao nhiêu tiền cho món hàng đó. Doanh nhân có thái độ quá bi quan về giá cả hàng tiêu dùng trong tương lai sẽ không tham gia cạnh tranh để giành những nguồn lực sản xuất như đất đai, máy móc và lao động. Trong khi đó, doanh nhân quá lạc quan sẵn sàng trả giá cao cho những tài sản đó, sẽ bị lỗ khi sản phẩm cuối cùng được đưa ra thị trường. Chỉ có những người dự đoán chính xác về giá cả của hàng tiêu dùng trong tương lai thì mới thành công. 

Vì vậy, có vốn không đảm bảo rằng tương lai sẽ trở thành giàu có. Vốn không tự “sinh ra chính nó” và không “tạo ra lợi nhuận”, như Marx nói. Thứ nhất, vốn phải được tích lũy bằng hành động có chủ ý của những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro, tạm thời chưa tiêu dùng và tạo ra hàng hoá vốn, tương tự người đang đói ngồi đan lưới bắt cá. Thứ hai, vốn có thể bị mất và lãng phí. Có thể bị mất vốn do sai lầm, đấy là khi doanh nhân đánh giá sai suy nghĩ của người tiêu dùng. Và, thứ ba, vốn có thể được mang ra tiêu dùng, đấy là khi một người nào đó bán thiết bị sản xuất để thanh toán các hóa đơn hay trả tiền cho các món hàng tiêu dùng. 

Tất cả những việc này tạo áp lực lên các doanh nhân, buộc họ phải thận trọng nhằm dự đoán đúng, và do đó, tìm cách giữ giá cả tư liệu sản xuất ăn khớp với giá cả hàng hoá tiêu dùng để họ có thể tiếp tục sản xuất. Nó thường xuyên khuyến khích doanh nhân đầu tư vào các tư liệu sản xuất mang lại giá trị cao nhất cho người tiêu dùng, và tìm ra những biện pháp tốt nhất và rẻ nhất nhằm đáp ứng những nhu cầu đó. 

Quá trình sản xuất đòi hỏi thời gian 

Tuy nhiên, theo các nhà kinh tế học Trường phái Áo, quan trọng là sản xuất đòi hỏi thời gian. Trong nền kinh tế hiện đại, tư liệu sản xuất thường phức tạp hơn hẳn cái lưới đánh cá và quá trình sản xuất có thể lâu hơn thời gian đan lưới và tung nó xuống sông. Có thể bao gồm nhiều bước và phải lắp ráp nhiều thành phần với nhau. Thậm chí, tư liệu sản xuất mà chúng ta xây dựng được và hàng hoá tiêu dùng phức tạp mà chúng ta sản xuất ra còn đòi hỏi những khoản đầu tư thêm về thời gian và sức lao động để giữ cho chúng hoạt động và được bảo trì. Hàng tiêu dùng của chúng ta cũng sẽ không tồn tại mãi: Chúng có ích cho chúng ta cho đến khi chúng ta dùng hết, hay cần phải sửa chữa hoặc thay thế. 

Vì vậy, khi tham gia sản xuất là chúng ta phải lựa chọn – không chỉ lựa chọn các phương tiện và vật tư mà chúng ta sẽ sử dụng, mà còn lựa chọn cách thức chúng ta đánh giá thời gian của mình. Chúng ta có thích dành nhiều thời gian hơn để làm ra những món hàng chất lượng cao, lâu bền hay không? Hay chúng ta thích những món hàng được sản xuất nhanh hơn và rẻ hơn, mặc dù không bền? Không có câu trả lời “đúng” cho những câu hỏi như vậy, nó hoàn toàn phụ thuộc vào cách đánh giá của những người ra quyết định. 

Vì vậy, cách chúng ta đánh giá thời gian là yếu tố thiết yếu trong tất cả những hành động mà chúng ta làm. Đương nhiên là, chúng ta muốn có cái mà chúng ta đánh giá cao ngay bây giờ chứ không phải sau này. Tuy nhiên, một số người đánh giá rất cao việc được thoả mãn ngay lập tức và tiêu thụ ngay tất cả mọi thứ mà họ kiếm được, trong khi những người khác thích tiết kiệm và tạm hoãn thoả mãn hôm nay với hi vọng sẽ được thoả mãn nhiều hơn trong tương lai. 

Xin xem xét trường hợp một người đứng trước lựa chọn tiêu 100 USD ngay bây giờ hay gửi vào ngân hàng với lãi suất 4% và sẽ được nhận 104 USD sau một năm. Nếu họ cho rằng thời gian chẳng có giá trị gì, họ sẽ không có gì để mất khi chờ đợi. Họ sẽ đưa vào ngân hàng số tiền đó và sau này sẽ nhận được 104 USD. Nhưng thời gian của chúng ta là có hạn, và tương tự tất cả mọi nguồn lực khan hiếm khác, thời gian có giá trị đối với chúng ta. Một số người có thể muốn được tưởng thưởng lớn hơn bằng cách không tiêu tiền trong một năm, còn một số người không muốn thế: Nhưng, chí ít, tất cả mọi người đều cho thời gian một số giá trị nào đó.

 Lựa chọn quá trình sản xuất phụ thuộc vào đánh giá thời gian 

Có tạo ra tư liệu sản xuất hay không – tương tự như lưới đánh cá hay nhà máy sản xuất ô tô – do đó, không chỉ là vấn đề tìm được công nghệ đúng. Vì sản xuất đòi hỏi thời gian, việc quyết định nên trì hoãn tiêu dùng và xây dựng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào cách bạn đánh giá thời gian của mình – sở thích theo thời gian của bạn. Bạn có thể biết cách đan lưới bắt cá, nhưng bạn cho rằng, chí ít là đối với mình, thời gian hiện có không đủ để làm việc đó. 

Điều này, Böhm-Bawerk giải thích, là nguồn gốc của ý tưởng về lợi tức. Nói một cách đơn giản nhất, lợi tức phản ánh cách đánh giá thời gian của mọi người. Họ thích có 100 USD ngay bây giờ hay 104 USD trong năm sau? Lãi suất không phải cái gì đó có thể bị xoá bỏ hay bãi bỏ bằng cách ban hành quy định vì nó là một phần của bản chất của con người. Nó phản ánh sở thích tự nhiên của chúng ta là được thoả mãn ngay bây giờ, chứ không phải trong tương lai. 

Cách đánh giá thời gian cũng có vai trò cực kì quan trọng đối với việc lựa chọn quy trình sản xuất – cụ thể, chúng ta sẵn sàng dùng bao nhiêu thời gian cho sản xuất. Nếu chúng ta quý trọng thời gian – thể hiện ở lãi suất cao – thì chúng ta sẽ thích quá trình sản xuất ngắn hơn. Chúng ta sẽ không muốn mất nhiều thời gian cho quá trình sản sản xuất, vì chúng ta muốn được thoả mãn ngay lập tức. Nếu chúng ta không đánh giá cao thời gian – thể hiện ở lãi suất thấp – thì quy trình sản xuất dài hơn vẫn đáp ứng được yêu cầu về tài chính. Nếu thời gian là không quan trọng, chúng ta có thể sử dụng quy trình phức tạp hơn, có thể có nhiều bước hơn, mất nhiều thời gian hơn – Böhm-Bawerk gọi là các quy trình sản xuất phức tạp hơn. 

Cơ cấu vốn 

Trên cơ sở nhận thức thấu triệt của Böhm-Bawerk về vốn và lãi suất, Mises và Hayek công nhận rằng sự kiện là các quy trình sản xuất hiện nay khá phức tạp và bao gồm nhiều bước cũng làm cho chúng trở thành dễ đổ vỡ. Sai lầm tại bất cứ vị trí nào trong dây chuyền sản xuất cũng đều có thể dẫn tới kết quả thảm khốc. 

Người ta thường nói về “vốn” như thể đấy là một cái gì đó thuần nhất, nhưng trên thực tế, đấy chỉ đơn giản là một ý tưởng. Tương tự “kích thước” hay “trọng lượng”, nó không tự thân tồn tại. Nó chỉ tồn tại trong tư liệu sản xuất. Và sự pha trộn một cách chính xác tư liệu sản xuất được sử dụng trong nền kinh tế – các nhà kinh tế học Trường phái Áo gọi là cơ cấu vốn – là cực kì quan trọng. 

Một quốc gia có thể sử dụng nhiều vốn, nhưng nếu họ tạo ra tư liệu sản xuất sai lầm, mà trên thực tế, không tạo ra được giá trị cho người tiêu dùng, thì tất cả những khoản chi tiêu đó đã bị lãng phí. 

Điều này có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc giải thích tính chất lặp đi lặp lại của các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, những vụ bùng nổ và sụp đổ lặp đi lặp lại trong những nền kinh tế này. Hiện tượng này được người ta gọi là chu kì kinh doanh, đi cùng với chúng là nạn thất nghiệp và mất mát về tài chính.