Kinh tế học trong một bài học. Chương 17: Việc ấn định giá cả của chính phủ 

Tác giả: Henry Hazlitt.

Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.

Biên dịch: Phong trào Duy Tân.

Chương 17: Việc ấn định giá cả của chính phủ 

1

Chúng ta đã thấy một số tác động của các nỗ lực từ phía chính phủ nhằm ấn định giá hàng hóa cao hơn mức mà thị trường tự do vốn sẽ xác lập. Giờ chúng ta hãy xem xét một số hệ quả từ các nỗ lực của chính phủ nhằm giữ giá hàng hóa thấp hơn mức thị trường tự nhiên.

Trong thời đại ngày nay, hầu hết các chính phủ đều thực hiện điều này trong thời chiến. Chúng ta sẽ không bàn đến ở đây sự khôn ngoan hay là không của việc ấn định giá cả trong thời chiến. Trong chiến tranh toàn diện, toàn bộ nền kinh tế tất yếu sẽ do Nhà nước kiểm soát, và những phức tạp cần phải xem xét sẽ đưa chúng ta đi quá xa khỏi chủ đề chính mà cuốn sách này đề cập đến. Tuy nhiên, việc ấn định giá cả trong thời chiến, dù hợp lý hay không, vẫn được duy trì ở hầu hết các quốc gia trong một thời gian dài sau khi chiến tranh kết thúc, ngay cả khi lý do ban đầu để thực hiện việc đó đã không còn.

Trước tiên, chúng ta hãy xem điều gì xảy ra khi chính phủ cố giữ giá của một loại hàng hóa, hoặc một nhóm nhỏ các mặt hàng, dưới mức giá mà nó sẽ được xác lập trong thị trường cạnh tranh tự do.

Khi chính phủ cố gắng ấn định mức giá tối đa cho một vài mặt hàng, họ thường chọn những nhu yếu phẩm cơ bản, với lý do rằng điều quan trọng nhất là người nghèo có thể mua được các mặt hàng này với mức giá “hợp lý”. Giả sử các mặt hàng được chọn cho mục đích này là bánh mì, sữa và thịt.

Lập luận để giữ giá những mặt hàng này ở mức thấp sẽ diễn ra như sau. Nếu chúng ta để thịt bò (chẳng hạn) cho thị trường tự do định đoạt, thì giá sẽ bị đẩy lên bởi sự cạnh tranh trong mua bán, đến mức chỉ người giàu mới mua được. Người ta sẽ mua thịt bò không theo mức độ nhu cầu của họ, mà theo sức mua của họ. Còn nếu chúng ta giữ giá ở mức thấp, thì ai cũng sẽ nhận được phần công bằng của mình.

Điều đầu tiên cần lưu ý về lập luận này là nếu nó đúng, thì chính sách được áp dụng sẽ vừa mâu thuẫn vừa thiếu quyết đoán. Nếu việc mua thịt bò với giá 65 xu một cân Anh được quyết định bởi khả năng chi trả của người mua chứ không phải bởi nhu cầu thực sự, thì điều này vẫn sẽ xảy ra ngay cả khi giá được nhà nước quy định xuống còn 50 xu một cân Anh — dù có thể mức độ ảnh hưởng sẽ ít hơn một chút. Trên thực tế, lập luận “sức mua chứ không phải nhu cầu” sẽ vẫn đúng miễn là người ta còn phải trả tiền để mua thịt bò. Nó chỉ không còn đúng nếu thịt bò được phát miễn phí.

Tuy nhiên, các kế hoạch ấn định giá tối đa thường bắt đầu như những nỗ lực nhằm “ngăn chi phí sinh hoạt tăng lên”. Và vì thế, những người đề xướng các kế hoạch này một cách vô thức cho rằng có điều gì đó “bình thường” hoặc thiêng liêng đặc biệt về mức giá của thị trường tại thời điểm mà họ bắt đầu áp đặt kiểm soát. Mức giá khởi điểm đó được xem là “hợp lý”, và bất kỳ mức giá nào cao hơn đều bị coi là “bất hợp lý”, bất kể đã có những thay đổi ra sao trong điều kiện sản xuất hoặc nhu cầu kể từ khi mức giá khởi điểm đó được thiết lập.

2

Khi thảo luận về chủ đề này, sẽ là vô nghĩa nếu giả định rằng một chính sách kiểm soát giá có thể cố định giá cả chính xác ở mức mà thị trường tự do cũng sẽ xác lập. Điều đó chẳng khác gì không có kiểm soát giá. Chúng ta phải giả định rằng sức mua trong tay công chúng lớn hơn nguồn cung hàng hóa hiện có, và rằng chính phủ đang giữ giá ở mức thấp hơn mức mà thị trường tự do sẽ đặt ra.

Chúng ta không thể giữ giá của bất kỳ mặt hàng nào dưới mức giá thị trường mà không gây ra hai hệ quả. Hệ quả thứ nhất là làm tăng nhu cầu đối với mặt hàng đó. Vì mặt hàng đó rẻ hơn nên người ta vừa bị hấp dẫn để mua nhiều hơn, vừa có khả năng mua nhiều hơn. Hệ quả thứ hai là làm giảm nguồn cung của mặt hàng đó. Vì mọi người mua nhiều hơn nên lượng hàng tích trữ sẽ nhanh chóng bị lấy đi khỏi kệ hàng của các thương nhân. Nhưng không chỉ có vậy, việc sản xuất mặt hàng đó cũng bị suy giảm. Biên lợi nhuận bị thu hẹp hoặc bị xóa sổ. Những nhà sản xuất cận biên bị buộc phải rút lui khỏi thị trường. Ngay cả những nhà sản xuất hiệu quả nhất cũng có thể bị yêu cầu sản xuất sản phẩm của họ ở mức lỗ. Điều này đã xảy ra trong chiến tranh khi Phòng Quản lý Giá cả (Office of Price Administration) yêu cầu các lò mổ phải giết mổ và chế biến thịt với mức giá thấp hơn chi phí mua gia súc sống và công lao động để giết mổ và chế biến.

Do đó, nếu chúng ta không làm gì khác, thì hậu quả của việc ấn định giá tối đa cho một mặt hàng cụ thể sẽ là gây ra tình trạng thiếu hụt mặt hàng đó. Nhưng điều này lại hoàn toàn trái ngược với mong muốn ban đầu của các nhà quản lý của chính phủ. Bởi chính những mặt hàng được chọn để ấn định giá tối đa là những mặt hàng mà các nhà quản lý muốn giữ nguồn cung dồi dào nhất. Nhưng khi họ giới hạn tiền lương và lợi nhuận của những người sản xuất ra các mặt hàng này, mà không giới hạn tiền lương và lợi nhuận của những người sản xuất hàng xa xỉ hoặc bán xa xỉ, thì họ đang ngăn cản việc sản xuất các mặt hàng thiết yếu chịu kiểm soát giá, trong khi lại kích thích tương đối việc sản xuất những mặt hàng kém thiết yếu hơn.

Một số hậu quả trong số này theo thời gian sẽ trở nên rõ ràng đối với các nhà quản lý, và khi đó họ sẽ áp dụng thêm nhiều biện pháp và chính sách kiểm soát khác nhằm cố gắng ngăn chặn chúng. Trong số các biện pháp này có phân phối theo tem phiếu (rationing), kiểm soát chi phí, trợ cấp, và kiểm soát giá toàn diện. Chúng ta hãy lần lượt xem xét từng biện pháp này.

Khi tình trạng thiếu hụt một mặt hàng nào đó trở nên rõ ràng do giá bị ấn định thấp hơn giá thị trường, những người tiêu dùng giàu có sẽ bị buộc tội là đã lấy “nhiều hơn phần công bằng của họ”; hoặc, nếu đó là một nguyên liệu thô dùng trong sản xuất, thì các doanh nghiệp cá nhân sẽ bị buộc tội là đang “tích trữ” nó. Chính phủ khi đó sẽ ban hành một loạt các quy định về việc ai sẽ được ưu tiên mua mặt hàng đó, hoặc mặt hàng đó sẽ được phân phối cho ai và với số lượng bao nhiêu, hoặc sẽ được phân phối như thế nào qua hệ thống tem phiếu. Nếu hệ thống tem phiếu được áp dụng, điều đó có nghĩa là mỗi người tiêu dùng chỉ có thể nhận được một lượng tối đa nhất định, bất kể họ sẵn sàng trả bao nhiêu để mua thêm.

Tóm lại, nếu áp dụng chế độ phân phối tem phiếu, điều đó có nghĩa là chính phủ đang áp dụng một hệ thống giá kép, hay một hệ thống tiền tệ kép, trong đó mỗi người tiêu dùng phải có một số lượng phiếu hoặc “điểm” nhất định bên cạnh một khoản tiền mặt thông thường. Nói cách khác, chính phủ đang cố gắng thực hiện thông qua chế độ tem phiếu một phần công việc mà thị trường tự do vốn sẽ thực hiện thông qua giá cả. Tôi nói là chỉ một phần công việc, bởi vì phân phối theo tem phiếu chỉ giới hạn nhu cầu mà không kích thích nguồn cung, như việc tăng giá sẽ làm.

Chính phủ có thể cố gắng đảm bảo nguồn cung bằng cách mở rộng sự kiểm soát đối với chi phí sản xuất của một mặt hàng. Chẳng hạn, để giữ giá bán lẻ thịt bò, chính phủ có thể ấn định giá bán sỉ thịt bò, giá thịt bò tại lò mổ, giá gia súc sống, giá thức ăn chăn nuôi, và tiền lương của công nhân nông trại. Để giữ giá sữa giao đến tay người tiêu dùng, chính phủ có thể kiểm soát tiền lương của người lái xe chở sữa, giá thùng chứa, giá sữa tại trang trại, giá thức ăn chăn nuôi. Để kiểm soát giá bánh mì, họ có thể kiểm soát tiền lương trong các tiệm bánh, giá bột mì, lợi nhuận của các nhà xay xát, giá lúa mì, v.v.

Nhưng khi chính phủ mở rộng việc kiểm soát giá về phía sau chuỗi sản xuất, họ cũng đồng thời mở rộng các hệ quả đã khiến họ phải thực hiện chính sách này ngay từ đầu. Giả sử chính phủ có đủ dũng khí để ấn định những chi phí này và có khả năng thực thi các quyết định của mình, thì họ lại chỉ đang tạo ra tình trạng thiếu hụt đối với các yếu tố khác nhau — như lao động, thức ăn chăn nuôi, lúa mì hay bất kỳ thứ gì –- tham gia vào quá trình sản xuất các mặt hàng cuối cùng. Như vậy, chính phủ bị đẩy đến chỗ phải áp dụng các biện pháp kiểm soát trên quy mô ngày càng rộng hơn, và hệ quả cuối cùng sẽ giống như trong trường hợp kiểm soát giá toàn diện.

Chính phủ có thể cố gắng giải quyết khó khăn này thông qua trợ cấp. Ví dụ, họ nhận thấy rằng khi giữ giá sữa hoặc bơ dưới mức giá thị trường, hoặc dưới mức tương đối mà họ đã ấn định cho các mặt hàng khác, thì có thể dẫn đến tình trạng thiếu hụt do tiền lương hoặc biên lợi nhuận từ việc sản xuất sữa hay bơ thấp hơn so với các mặt hàng khác. Do đó, chính phủ cố gắng bù đắp cho điều này bằng cách trả trợ cấp cho các nhà sản xuất sữa và bơ. Tạm bỏ qua những khó khăn về mặt hành chính đi kèm với việc này, và giả sử rằng mức trợ cấp vừa đủ để đảm bảo sản lượng sữa và bơ mong muốn, thì rõ ràng là, dù trợ cấp được trả cho những người sản xuất, nhưng những người thực sự được trợ cấp là người tiêu dùng. Bởi vì các nhà sản xuất, xét về tổng thể, không nhận được nhiều hơn so với trường hợp họ được phép bán sữa và bơ theo giá thị trường tự do ngay từ đầu; nhưng người tiêu dùng lại được mua sữa và bơ với giá thấp hơn nhiều so với giá thị trường tự do. Họ đang được trợ cấp tương ứng với phần chênh lệch — tức là bằng số tiền trợ cấp được trả cho các nhà sản xuất.

Trừ khi mặt hàng được trợ cấp cũng bị phân phối theo chế độ tem phiếu (rationing), thì những người có sức mua lớn nhất sẽ là những người mua được nhiều nhất. Điều này có nghĩa là họ được trợ cấp nhiều hơn so với những người có sức mua ít hơn. Ai sẽ trợ cấp cho người tiêu dùng thì còn tùy thuộc vào cách đánh thuế. Nhưng con người, trong vai trò là người nộp thuế, sẽ đang trợ cấp cho chính mình trong vai trò người tiêu dùng. Trong mê cung này, thật khó để xác định chính xác ai đang trợ cấp cho ai. Điều bị lãng quên là các khoản trợ cấp đều do ai đó chi trả, và chưa có phương pháp nào được phát hiện để cho phép cộng đồng có được thứ gì đó mà không phải trả giá.

3

Việc ấn định giá thường có vẻ thành công trong một thời gian ngắn. Nó có thể trông như hoạt động tốt trong một khoảng thời gian, đặc biệt là trong thời chiến, khi nó được hỗ trợ bởi lòng yêu nước và cảm giác khủng hoảng. Nhưng càng kéo dài thì các khó khăn của nó càng tăng. Khi giá cả bị giữ ở mức thấp một cách tùy tiện bởi sự cưỡng chế của chính phủ, cầu sẽ liên tục vượt cung. Chúng ta đã thấy rằng nếu chính phủ cố gắng ngăn chặn tình trạng thiếu hụt một mặt hàng bằng cách đồng thời hạ thấp giá nhân công, nguyên liệu thô và các yếu tố khác cấu thành chi phí sản xuất, thì họ lại tạo ra tình trạng thiếu hụt đối với các yếu tố đó. Nhưng nếu chính phủ theo đuổi con đường này, thì họ không chỉ buộc phải mở rộng việc kiểm soát giá ngày càng sâu hơn “theo chiều dọc”, mà còn không kém phần cần thiết phải mở rộng kiểm soát giá “theo chiều ngang”. Nếu chúng ta phân phối một mặt hàng theo chế độ tem phiếu và công chúng không thể mua đủ mặt hàng đó, trong khi vẫn còn sức mua dư thừa, thì họ sẽ chuyển sang các mặt hàng thay thế. Nói cách khác, việc phân phối tem phiếu cho từng mặt hàng khi chúng dần trở nên khan hiếm sẽ tạo ra áp lực ngày càng lớn lên các mặt hàng chưa bị kiểm soát. Nếu giả định rằng chính phủ thành công trong việc ngăn chặn thị trường chợ đen (hoặc ít nhất là ngăn chặn nó phát triển ở quy mô đủ lớn để vô hiệu hóa mức giá hợp pháp của chính phủ), thì việc kiểm soát giá liên tục sẽ buộc chính phủ phải áp dụng chế độ tem phiếu cho ngày càng nhiều mặt hàng. Việc phân phối này không thể dừng lại ở người tiêu dùng. Trong thời chiến, nó đã không dừng lại ở đó. Trên thực tế, nó được áp dụng trước tiên trong việc phân phối nguyên liệu thô cho các nhà sản xuất.

Hậu quả tất yếu của một hệ thống kiểm soát giá toàn diện và triệt để nhằm duy trì một mức giá lịch sử nhất định, nói ngắn gọn, rốt cuộc sẽ là một nền kinh tế hoàn toàn bị kiểm soát. Tiền lương sẽ phải bị kìm giữ nghiêm ngặt không kém gì giá cả. Lao động sẽ phải bị phân phối nghiêm khắc không kém gì nguyên liệu thô. Kết quả cuối cùng là chính phủ sẽ không chỉ cho mỗi người tiêu dùng biết chính xác họ được phép có bao nhiêu hàng hóa mỗi loại; mà còn cho mỗi nhà sản xuất biết chính xác họ được phép sử dụng bao nhiêu nguyên liệu thô và bao nhiêu nhân công. Việc cạnh tranh để giành người lao động sẽ không được dung thứ, cũng như việc đấu thầu để giành nguyên vật liệu. Hệ quả sẽ là một nền kinh tế toàn trị bị đóng băng, trong đó mọi doanh nghiệp và người lao động đều phải lệ thuộc hoàn toàn vào chính phủ, và tất cả những quyền tự do truyền thống mà chúng ta từng biết sẽ bị từ bỏ hoàn toàn. Bởi như Alexander Hamilton đã chỉ ra trong các bài Luận cương Liên bang cách đây một thế kỷ rưỡi: “Quyền kiểm soát sinh kế của một người cũng đồng nghĩa với quyền kiểm soát ý chí của anh ta.”

4

Đó là những hệ quả của cái có thể được mô tả là sự kiểm soát giá “hoàn hảo”, kéo dài và “phi chính trị”. Như đã được chứng minh rất rõ ràng ở nhiều quốc gia, đặc biệt là tại châu Âu trong và sau Thế chiến II, một số sai lầm tệ hại hơn của các quan chức đã được giảm nhẹ nhờ thị trường chợ đen. Tại nhiều quốc gia châu Âu, câu chuyện phổ biến là người dân chỉ có thể kiếm đủ để tồn tại bằng cách mua bán trên thị trường chợ đen. Ở một số quốc gia, thị trường chợ đen ngày càng phát triển, lấn át thị trường có giá cố định do pháp luật công nhận, cho đến khi chợ đen thực sự trở thành thị trường. Tuy nhiên, bằng cách duy trì các mức giá trần trên danh nghĩa, các chính trị gia cầm quyền đã cố gắng chứng tỏ rằng trái tim của họ, nếu không phải là các lực lượng thực thi của họ, vẫn ở đúng chỗ.

Tuy chợ đen cuối cùng đã thay thế thị trường có mức giá trần hợp pháp, nhưng không nên vì thế mà cho rằng điều đó không gây ra tổn hại nào. Thiệt hại xảy ra cả về kinh tế lẫn đạo đức. Trong giai đoạn chuyển tiếp, các công ty lớn, lâu đời, với vốn đầu tư lớn và phụ thuộc nhiều vào việc duy trì thiện cảm từ công chúng, buộc phải hạn chế hoặc ngừng sản xuất. Thay thế họ là những công ty nhỏ lẻ với ít vốn và hầu như không có kinh nghiệm tích lũy trong sản xuất. Các công ty mới này hoạt động kém hiệu quả so với những công ty mà họ thay thế; họ sản xuất ra những sản phẩm kém chất lượng và không trung thực, với chi phí sản xuất cao hơn nhiều so với mức mà các công ty cũ cần để tiếp tục sản xuất ra những sản phẩm trước kia. Sự gian dối được khuyến khích. Các công ty mới tồn tại và phát triển chính nhờ vào việc sẵn sàng vi phạm pháp luật; khách hàng thì thông đồng với họ; và hệ quả tất yếu là sự suy đồi đạo đức lan rộng trong toàn bộ các hoạt động kinh doanh.

Hơn nữa, hiếm khi những người chịu trách nhiệm điều chỉnh giá chỉ cố gắng duy trì mức giá như lúc ban đầu khi họ bắt đầu can thiệp. Họ tuyên bố rằng mục tiêu của mình là “giữ nguyên mặt bằng giá.” Thế nhưng chẳng bao lâu sau, dưới chiêu bài “sửa chữa bất công” hoặc “bất bình đẳng xã hội,” họ bắt đầu áp dụng một chính sách kiểm soát giá mang tính phân biệt đối xử, ưu đãi nhiều nhất cho những nhóm có thế lực chính trị và ít nhất cho các nhóm khác.

Vì quyền lực chính trị ngày nay thường được đo bằng số phiếu bầu, nên các nhóm mà chính quyền thường cố gắng ưu ái nhất là công nhân và nông dân. Ban đầu, họ lập luận rằng tiền lương và chi phí sinh hoạt không liên quan gì với nhau; rằng tiền lương có thể dễ dàng được nâng lên mà không làm tăng giá cả. Khi rõ ràng là tiền lương chỉ có thể tăng lên với cái giá là lợi nhuận bị giảm sút, các quan chức bắt đầu lập luận rằng lợi nhuận vốn đã quá cao rồi, và rằng việc tăng lương trong khi giữ giá không đổi vẫn sẽ cho phép “thu được lợi nhuận hợp lý”. Vì không có cái gọi là một mức lợi nhuận đồng đều, do lợi nhuận khác nhau giữa các doanh nghiệp, nên kết quả của chính sách này là đẩy những doanh nghiệp có lợi nhuận thấp nhất ra khỏi thị trường hoàn toàn, và ngăn cản hoặc ngừng sản xuất một số mặt hàng nhất định. Điều này đồng nghĩa với thất nghiệp, sản lượng sụt giảm và mức sống suy giảm.

5

Cơ sở của toàn bộ nỗ lực ấn định giá tối đa là gì? Trước hết, là sự hiểu sai về nguyên nhân khiến giá cả tăng. Nguyên nhân thực sự là do hoặc khan hiếm hàng hóa, hoặc dư thừa tiền. Giá trần hợp pháp không thể khắc phục được vấn đề nào trong hai cái đó. Trên thực tế, như ta vừa thấy, chúng chỉ làm trầm trọng thêm tình trạng thiếu hụt hàng hóa. Việc giải quyết tình trạng dư thừa tiền sẽ được bàn đến ở chương sau. Nhưng một trong những sai lầm nằm sau sự ủng hộ kiểm soát giá là chủ đề chính của cuốn sách này. Cũng giống như vô số kế hoạch nhằm tăng giá các mặt hàng được ưu đãi là kết quả của việc chỉ nghĩ đến lợi ích của những nhà sản xuất có liên quan trực tiếp và quên đi lợi ích của người tiêu dùng, thì các kế hoạch nhằm giữ giá thấp bằng sắc lệnh pháp lý cũng là kết quả của việc chỉ nghĩ đến lợi ích của người dân với tư cách là người tiêu dùng và quên mất lợi ích của họ với tư cách là nhà sản xuất. Sự ủng hộ về mặt chính trị đối với những chính sách như vậy bắt nguồn từ sự nhầm lẫn tương tự trong suy nghĩ của công chúng. Người dân không muốn phải trả nhiều tiền hơn cho sữa, bơ, giày dép, đồ nội thất, tiền thuê nhà, vé xem kịch hay kim cương. Bất cứ khi nào giá của những mặt hàng này tăng cao hơn mức trước đó, người tiêu dùng lập tức phẫn nộ và cảm thấy mình bị lừa.

Ngoại lệ duy nhất là mặt hàng mà người tiêu dùng tự sản xuất: trong trường hợp này, anh ta hiểu và đánh giá đúng lý do khiến giá cả tăng lên. Nhưng anh ta luôn có xu hướng coi công việc kinh doanh của mình là một ngoại lệ nào đó. “Riêng doanh nghiệp của tôi,” anh ta sẽ nói, “là đặc thù, và công chúng không hiểu được. Chi phí lao động đã tăng lên; giá nguyên liệu thô cũng tăng; một số nguyên liệu thô nào đó không còn được nhập khẩu nữa và buộc phải sản xuất trong nước với chi phí cao hơn. Hơn nữa, nhu cầu đối với sản phẩm đã tăng lên, và doanh nghiệp cần được phép tính mức giá đủ để khuyến khích mở rộng sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu đó.” Vân vân và vân vân. Mỗi người với tư cách là người tiêu dùng thì mua hàng trăm sản phẩm khác nhau; nhưng với tư cách là nhà sản xuất, họ thường chỉ tạo ra một sản phẩm duy nhất. Họ có thể nhìn thấy sự bất công trong việc kìm giá sản phẩm đó. Và cũng giống như mỗi nhà sản xuất đều muốn một mức giá cao hơn cho sản phẩm của mình, mỗi người lao động cũng muốn một mức lương hay tiền công cao hơn. Ai cũng có thể thấy, với tư cách là nhà sản xuất, rằng việc kiểm soát giá đang hạn chế sản xuất trong lĩnh vực của mình. Nhưng hầu như không ai chịu khái quát hóa quan sát này, vì điều đó đồng nghĩa với việc họ sẽ phải trả nhiều hơn cho sản phẩm của người khác.

Tóm lại, mỗi người chúng ta đều có nhiều nhân cách kinh tế. Chúng ta vừa là nhà sản xuất, vừa là người nộp thuế, vừa là người tiêu dùng. Những chính sách mà ta ủng hộ phụ thuộc vào góc độ cụ thể mà ta nhìn nhận bản thân tại thời điểm đó. Bởi vì có lúc ta là Dr. Jekyll, và có lúc lại là Mr. Hyde. Với tư cách là một nhà sản xuất, ta muốn lạm phát (chủ yếu nghĩ đến dịch vụ hay sản phẩm của chính mình); với tư cách là người tiêu dùng, ta muốn có giá trần (chủ yếu nghĩ đến những gì mình phải trả cho sản phẩm của người khác). Là người tiêu dùng, ta có thể ủng hộ hoặc chấp thuận trợ cấp; nhưng là người nộp thuế, ta sẽ không muốn trả chúng. Mỗi người đều có xu hướng nghĩ rằng mình có thể khéo léo vận dụng các lực lượng chính trị sao cho nhận được lợi ích từ trợ cấp nhiều hơn số tiền mất đi qua thuế, hoặc hưởng lợi từ việc giá sản phẩm của mình tăng (trong khi chi phí nguyên liệu thô được pháp luật giữ ở mức thấp), đồng thời vẫn được hưởng lợi từ việc kiểm soát giá cả với tư cách là người tiêu dùng. Nhưng phần lớn mọi người đều sẽ tự lừa dối mình. Bởi vì không chỉ đơn thuần là những can thiệp chính trị vào giá cả này mang lại tổn thất ít nhất ngang bằng với lợi ích; mà còn gây ra tổn thất lớn hơn rất nhiều, vì việc kiểm soát giá cả cản trở và gây rối loạn cho việc làm cũng như sản xuất.


Đăng ngày

trong