Tác giả: Henry Hazlitt.
Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.
Chương 16: “Bình ổn” giá hàng hóa
Những nỗ lực nhằm nâng giá một số mặt hàng cụ thể, một cách lâu dài, cao hơn mức giá tự nhiên trên thị trường đã thất bại nhiều lần, và hậu quả thảm hại và tai tiếng đến mức các nhóm lợi ích có hiểu biết và các quan chức bị họ gây sức ép hiếm khi công khai thừa nhận mục tiêu đó. Mục tiêu mà họ tuyên bố, đặc biệt là khi họ lần đầu đề xuất chính phủ can thiệp, thường khiêm tốn và có vẻ hợp lý hơn nhiều.
Họ tuyên bố rằng họ không hề có ý định nâng giá của mặt hàng X lên trên mức tự nhiên một cách lâu dài. Họ thừa nhận rằng điều đó sẽ không công bằng với người tiêu dùng. Nhưng rõ ràng là giá hiện tại đang thấp hơn nhiều so với mức giá tự nhiên của nó. Người sản xuất không thể kiếm sống. Nếu chúng ta không hành động kịp thời, họ sẽ bị buộc phải ngừng kinh doanh. Khi đó sẽ xảy ra tình trạng khan hiếm thực sự, và người tiêu dùng sẽ phải trả mức giá cắt cổ cho mặt hàng đó. Những món hời mà người tiêu dùng đang có hiện nay rồi sẽ khiến họ phải trả giá đắt về sau. Với mức giá thấp “tạm thời” hiện tại thì không thể kéo dài. Nhưng chúng ta không thể chờ đợi cái gọi là lực lượng thị trường tự nhiên, hay luật cung cầu “mù quáng” để điều chỉnh tình hình. Vì đến lúc đó, những người sản xuất sẽ bị phá sản và chúng ta sẽ phải đối mặt với tình trạng khan hiếm trầm trọng. Chính phủ phải hành động. Tất cả những gì chúng tôi thật sự muốn làm là điều chỉnh những biến động giá dữ dội và phi lý này. Chúng tôi không cố gắng đẩy giá lên; chúng tôi chỉ đang cố gắng bình ổn nó mà thôi.
Có một số phương pháp thường được đề xuất để làm điều này. Một trong những phương pháp phổ biến nhất là chính phủ cho nông dân vay tiền để họ có thể giữ nông sản lại, không đưa ra thị trường.
Những khoản vay như vậy thường được kêu gọi tại Quốc hội với những lý do nghe có vẻ rất hợp lý đối với phần lớn thính giả. Họ được nghe rằng nông sản của nông dân đều được bán ra thị trường cùng một lúc, vào mùa thu hoạch; rằng đó chính là thời điểm giá thấp nhất, và rằng những tay đầu cơ sẽ lợi dụng điều này để mua nông sản rồi giữ lại, chờ giá tăng khi lương thực khan hiếm trở lại. Do đó, người ta cho rằng người nông dân phải chịu thiệt thòi, và rằng họ, chứ không phải những tay đầu cơ, nên được hưởng lợi từ mức giá trung bình cao hơn.
Lập luận này không được lý thuyết hay thực tiễn ủng hộ. Những nhà đầu cơ bị chỉ trích nặng nề thực ra không phải là kẻ thù của người nông dân; họ là yếu tố thiết yếu cho lợi ích tốt nhất của nông dân. Những rủi ro do giá nông sản biến động phải do ai đó gánh chịu; và trên thực tế, trong thời hiện đại, phần lớn rủi ro đó do các nhà đầu cơ chuyên nghiệp đảm nhận. Nhìn chung, các nhà đầu cơ chuyên nghiệp hành động càng hiệu quả vì lợi ích của chính họ, thì họ lại càng giúp ích cho người nông dân. Vì các nhà đầu cơ phục vụ lợi ích của bản thân chính xác theo khả năng họ có thể dự đoán được giá cả trong tương lai. Nhưng họ dự đoán giá cả trong tương lai càng chính xác, thì những biến động về giá cả sẽ càng ít dữ dội hoặc cực đoan hơn.
Ngay cả nếu người nông dân phải bán tháo toàn bộ vụ lúa mì của mình ra thị trường chỉ trong vòng một tháng trong năm, thì giá vào tháng đó cũng không nhất thiết sẽ thấp hơn giá vào bất kỳ tháng nào khác (ngoại trừ yếu tố chi phí lưu kho). Bởi vì các nhà đầu cơ, với hy vọng kiếm lời, sẽ mua vào chủ yếu vào thời điểm đó. Họ sẽ tiếp tục mua cho đến khi giá tăng đến mức họ không còn thấy cơ hội sinh lời trong tương lai nữa. Họ sẽ bán ra bất cứ khi nào họ dự đoán có khả năng thua lỗ trong tương lai. Kết quả là giá hàng hóa nông nghiệp sẽ được bình ổn quanh năm.
Chính vì có một nhóm các nhà đầu cơ chuyên nghiệp tồn tại để gánh chịu những rủi ro này, nên người nông dân và các nhà xay xát không cần phải chịu thay. Họ có thể tự bảo vệ mình thông qua thị trường. Do đó, trong điều kiện bình thường, khi các nhà đầu cơ làm tốt công việc của họ, thì lợi nhuận của người nông dân và các nhà xay xát sẽ phụ thuộc chủ yếu vào kỹ năng và sự siêng năng của họ trong việc canh tác hay xay xát, chứ không phải vào biến động của thị trường.
Thực tiễn cho thấy rằng, giá trung bình của lúa mì và các loại cây trồng không dễ hư hỏng khác giữ nguyên quanh năm ngoại trừ phần chênh lệch do chi phí lưu kho và bảo hiểm. Trên thực tế, một số cuộc điều tra cẩn trọng đã cho thấy rằng mức tăng trung bình hàng tháng sau mùa thu hoạch còn không đủ để trả chi phí lưu trữ, vì vậy các nhà đầu cơ thực chất đã trợ cấp cho nông dân. Tất nhiên, đây không phải là ý định của họ: nó chỉ đơn giản là kết quả của xu hướng lạc quan thái quá kéo dài từ phía các nhà đầu cơ. (Xu hướng này dường như ảnh hưởng đến các doanh nhân trong hầu hết các hoạt động cạnh tranh: với tư cách là một nhóm, họ liên tục — trái với ý định của mình — trợ cấp cho người tiêu dùng. Điều này đặc biệt đúng trong những lĩnh vực có triển vọng thu lời lớn từ đầu cơ. Cũng như những người chơi xổ số, xét như một tổng thể, luôn mất tiền vì ai cũng hy vọng một cách phi lý rằng mình sẽ trúng một trong số ít giải độc đắc, nên người ta đã tính được rằng tổng lao động và vốn đổ vào việc tìm kiếm vàng hay dầu mỏ đã vượt quá tổng giá trị của lượng vàng hay dầu mỏ khai thác được.)
2
Tuy nhiên, tình hình sẽ hoàn toàn khác khi Nhà nước can thiệp và hoặc là tự mình mua nông sản của nông dân, hoặc là cho họ vay tiền để họ giữ hàng lại, không đưa ra thị trường. Việc này đôi khi được thực hiện dưới danh nghĩa duy trì cái mà người ta gọi một cách hợp lý là “kho dự trữ bình ổn”. Nhưng lịch sử giá cả và lượng nông sản tồn kho hàng năm cho thấy rằng chức năng này đã được thị trường tự do do khu vực tư nhân tổ chức thực hiện tốt. Khi chính phủ can thiệp, “kho dự trữ bình ổn” đó trên thực tế lại trở thành một kho bình ổn chính trị. Người nông dân được khuyến khích, bằng tiền của người nộp thuế, giữ lại nông sản quá mức cần thiết. Để đảm bảo giữ được lá phiếu của người nông dân, các chính trị gia đề xướng chính sách hoặc các quan chức thực thi nó luôn đặt cái gọi là giá “công bằng” cho sản phẩm của nông dân cao hơn mức giá mà điều kiện cung và cầu tại thời điểm đó cho phép. Điều này dẫn đến tình trạng người mua giảm. Do đó, kho dự trữ “bình ổn” có xu hướng trở thành kho dự trữ bất ổn. Một lượng hàng tồn kho quá lớn bị giữ lại ngoài thị trường. Hệ quả của việc này là tạm thời đảm bảo mức giá cao hơn so với bình thường, nhưng chỉ để dẫn đến mức giá sau đó thấp hơn nhiều so với mức giá đáng ra sẽ có. Bởi vì tình trạng thiếu hụt giả tạo do giữ lại một phần vụ mùa khỏi thị trường xảy ra trong năm nay sẽ trở thành tình trạng dư thừa giả tạo trong năm sau.
Việc mô tả chi tiết về những gì đã thực sự xảy ra khi chương trình này được áp dụng, ví dụ như đối với ngành bông của Mỹ, sẽ đưa chúng ta đi quá xa khỏi chủ đề chính.
Chúng ta đã tích trữ cả một vụ bông trong kho. Chúng ta đã phá hủy thị trường xuất khẩu cho mặt hàng bông của mình. Chúng ta đã kích thích mạnh mẽ việc trồng bông ở các quốc gia khác. Mặc dù những hệ quả đó đã được những người phản đối chính-sách-hạn-chế-và-cho-vay dự báo từ trước, nhưng khi chúng thực sự xảy ra, các quan chức chịu trách nhiệm chỉ trả lời rằng dù sao thì những điều đó cũng sẽ xảy ra.
Chính sách cho vay thường đi kèm với, hoặc tất yếu dẫn đến, một chính sách hạn chế sản xuất — tức là chính sách tạo ra sự khan hiếm. Trong hầu như mọi nỗ lực nhằm “bình ổn” giá của một mặt hàng, lợi ích của nhà sản xuất luôn được đặt lên hàng đầu. Mục đích thực sự là nhằm tăng giá ngay lập tức. Để điều đó trở nên khả thi, một hạn chế sản lượng theo tỷ lệ thường được áp dụng cho mỗi nhà sản xuất nằm trong diện kiểm soát. Điều này ngay lập tức gây ra một số tác động tiêu cực. Giả sử rằng việc kiểm soát có thể được áp đặt trên quy mô quốc tế, thì điều đó đồng nghĩa với việc tổng sản lượng của thế giới bị cắt giảm. Người tiêu dùng trên toàn thế giới sẽ được hưởng ít sản phẩm đó hơn so với khi không có sự hạn chế. Thế giới vì vậy trở nên nghèo hơn. Vì người tiêu dùng buộc phải trả giá cao hơn so với bình thường cho sản phẩm đó, họ sẽ có ít tiền hơn để chi tiêu cho những sản phẩm khác.
3
Những người ủng hộ chính sách hạn chế thường phản bác rằng sự sụt giảm sản lượng như vậy dù sao cũng xảy ra trong nền kinh tế thị trường. Nhưng như chúng ta đã thấy ở chương trước, có một sự khác biệt căn bản. Trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh, những nhà sản xuất có chi phí cao, những nhà sản xuất kém hiệu quả, sẽ bị loại bỏ khi giá cả giảm xuống. Trong trường hợp của một mặt hàng nông sản, những nông dân kém năng lực nhất, hoặc có trang thiết bị tồi tàn nhất, hoặc canh tác trên những vùng đất xấu nhất, sẽ bị loại bỏ. Những nông dân có năng lực nhất trên những vùng đất tốt nhất thì không cần phải hạn chế sản xuất. Trái lại, nếu giá cả giảm là biểu hiện của chi phí sản xuất trung bình thấp hơn, thể hiện qua nguồn cung tăng lên, thì việc loại bỏ những người nông dân cận biên trên những vùng đất cận biên sẽ cho phép những người nông dân giỏi trên vùng đất tốt mở rộng sản xuất. Vì vậy, về lâu dài, có thể sẽ không có sự sụt giảm nào trong sản lượng của mặt hàng đó. Và sản phẩm khi đó sẽ được sản xuất và bán ra với mức giá thấp hơn một cách lâu dài.
Nếu đó là kết quả, thì người tiêu dùng của mặt hàng đó vẫn được cung ứng đầy đủ như trước. Nhưng do giá thấp hơn, họ sẽ có tiền dư, mà trước đây họ không có, để chi tiêu cho những thứ khác. Do đó, rõ ràng người tiêu dùng sẽ được lợi hơn. Hơn nữa, việc họ chi tiêu nhiều hơn ở những lĩnh vực khác sẽ tạo ra thêm việc làm trong những ngành đó, nơi sẽ thu hút những người nông dân trước đây chỉ hoạt động ở mức cận biên vào những ngành nghề mà công sức của họ sẽ mang lại hiệu quả cao hơn và thu nhập tốt hơn.
Một hạn chế theo tỷ lệ thống nhất (trở lại với các chương trình can thiệp của chính phủ) có nghĩa là, một mặt, những nhà sản xuất hiệu quả với chi phí thấp không được phép sản xuất toàn bộ sản lượng mà họ có thể với mức giá thấp. Mặt khác, điều đó cũng có nghĩa là những nhà sản xuất kém hiệu quả với chi phí cao lại được duy trì hoạt động một cách nhân tạo. Điều này làm tăng chi phí sản xuất trung bình của sản phẩm. Việc sản xuất trở nên kém hiệu quả hơn so với bình thường. Những nhà sản xuất cận biên kém hiệu quả, do được giữ lại một cách nhân tạo trong ngành, tiếp tục chiếm dụng đất đai, lao động và vốn, những nguồn lực đáng lẽ có thể được sử dụng hiệu quả và sinh lời hơn nhiều cho các mục đích khác.
Thật là vô nghĩa khi tranh luận rằng, nhờ vào chương trình hạn chế sản lượng, ít nhất giá nông sản đã tăng lên và “nông dân có nhiều sức mua hơn.” Họ chỉ có được sức mua đó bằng cách lấy đi đúng từng ấy sức mua từ người tiêu dùng ở thành thị. (Chúng ta đã bàn về vấn đề này trong phần phân tích giá “tương đương” trước đó.) Việc đưa tiền cho nông dân để hạn chế sản xuất, hoặc đưa cho họ cùng một số tiền để sản xuất bị hạn chế một cách nhân tạo, không khác gì việc buộc người tiêu dùng hoặc người nộp thuế phải trả tiền cho những người không làm gì cả. Trong mỗi trường hợp, những người hưởng lợi từ các chính sách như vậy đều nhận được “sức mua”. Nhưng cũng trong cả hai trường hợp, một người khác sẽ mất đi một số tiền tương đương. Tổn thất ròng đối với toàn xã hội là sự mất mát về sản lượng, bởi vì người ta được hỗ trợ để không sản xuất. Vì có ít hàng hóa hơn cho mọi người, vì lượng hàng hóa để phân phối ít đi, nên tiền lương thực tế và thu nhập thực tế phải giảm hoặc thông qua giá trị tiền tệ giảm, hoặc thông qua chi phí sinh hoạt tăng.
Tuy nhiên, nếu cố gắng duy trì giá của một mặt hàng nông sản mà không áp đặt biện pháp hạn chế sản lượng một cách nhân tạo, thì lượng dư thừa không bán được của mặt hàng có giá quá cao này sẽ tiếp tục chất đống cho đến khi thị trường của sản phẩm đó cuối cùng sụp đổ ở mức độ nghiêm trọng hơn nhiều so với khi chương trình kiểm soát chưa từng được thực hiện. Hoặc các nhà sản xuất không bị hạn chế bởi chính sách này, bị hấp dẫn bởi giá cao một cách nhân tạo, sẽ đẩy mạnh việc sản xuất một cách ồ ạt. Đây chính là những gì đã xảy ra với chương trình hạn chế cao su của Anh và chương trình hạn chế bông của Mỹ. Trong cả hai trường hợp, sự sụp đổ của giá cả cuối cùng cũng đi đến mức thảm khốc mà sẽ không bao giờ xảy ra nếu không có chương trình hạn chế. Kế hoạch ban đầu được khởi xướng một cách nghiêm túc nhằm “bình ổn” giá cả và điều kiện thị trường lại mang đến sự bất ổn lớn hơn gấp nhiều lần so với những gì các lực lượng thị trường tự do có thể gây ra.
Tất nhiên, chúng ta được nghe rằng các biện pháp kiểm soát hàng hóa quốc tế đang được đề xuất hiện nay sẽ tránh được mọi sai lầm kể trên. Lần này, giá cả sẽ được ấn định sao cho “công bằng” không chỉ với người sản xuất mà còn với người tiêu dùng. Các quốc gia sản xuất và tiêu dùng sẽ cùng nhau đồng thuận về mức giá công bằng này, bởi sẽ không ai cư xử vô lý cả. Giá cố định sẽ tất yếu dẫn đến việc phân bổ và phân chia “công bằng” cho sản xuất và tiêu thụ giữa các quốc gia, nhưng chỉ những kẻ hoài nghi mới dự đoán các tranh chấp quốc tế không hay liên quan đến vấn đề này. Và cuối cùng, như một phép màu vĩ đại nhất, thế giới hậu chiến với các biện pháp kiểm soát và cưỡng chế siêu quốc gia này cũng sẽ trở thành một thế giới của thương mại quốc tế “tự do”!
Tôi không chắc các nhà hoạch định chính sách của chính phủ muốn nói gì khi nhắc đến thương mại tự do trong bối cảnh này, nhưng chúng ta có thể chắc chắn về một số điều mà họ không muốn nói tới. Họ không muốn nói đến quyền tự do của người dân bình thường trong việc mua và bán, cho vay và vay mượn, với bất kỳ mức giá hay tỷ giá nào mà họ thích và tại bất cứ nơi nào họ thấy có lợi nhất. Họ cũng không nói đến quyền tự do của một công dân bình thường trong việc trồng bao nhiêu loại cây họ muốn, đi lại tùy ý, định cư ở bất cứ nơi nào họ thích, mang theo vốn và các tài sản khác của mình. Tôi ngờ rằng điều họ thực sự muốn nói đến là quyền tự do của các quan chức trong việc quyết định tất cả những điều đó thay cho người dân. Và họ nói với người dân rằng nếu ngoan ngoãn nghe lời các quan chức, họ sẽ được thưởng bằng mức sống cao hơn. Nhưng nếu các nhà hoạch định chính sách thành công trong việc gắn kết ý tưởng về hợp tác quốc tế với ý tưởng về sự thống trị và kiểm soát ngày càng tăng của Nhà nước đối với đời sống kinh tế, thì các biện pháp kiểm soát quốc tế trong tương lai rất có thể sẽ lặp lại mô hình của quá khứ, mà trong trường hợp đó, mức sống của người dân bình thường sẽ suy giảm cùng với các quyền tự do của họ.