Tác giả: Vương Hỗ Ninh
Chương 11. Những dòng chảy ngầm của khủng hoảng
Bài 10. Đế chế mặt trời
Gần đây có một bộ phim mang tên Empire of the Sun (Đế Chế Mặt Trời) mô tả mối quan hệ giữa quân xâm lược Nhật Bản và một nhóm người phương Tây tại Thượng Hải trong Thế chiến II. Những người phương Tây này bị giam cầm trong các trại tập trung trong thời kỳ chiến tranh, bị lính Nhật canh giữ, tra tấn, đói khát và bị hạ thấp nhân phẩm. Đạo diễn người Mỹ đã làm ra bộ phim này vào một thời điểm mà nền kinh tế Nhật Bản đang tấn công mạnh mẽ vào đất Mỹ và các thị trường toàn cầu. Thật khó để đoán định ý đồ của đạo diễn. Tuy nhiên, bộ phim ít nhất đã cảnh báo rằng người Nhật có những giá trị khác biệt với phương Tây, rằng người Nhật là những kẻ tàn bạo và độc ác, và họ không công nhận những giá trị và niềm tin cơ bản của con người. Liệu điều này có nghĩa là người Nhật và phương Tây đang chiến thắng trên một mặt trận khác – mặt trận kinh tế – là điều mà mọi người cần tự suy ngẫm.
Thành công kinh tế của Nhật Bản đã được ca ngợi như một phép màu. Người Nhật tự hào về điều đó. Trong Thế chiến II, Nhật Bản bị đánh bại và lãnh thổ của họ bị chiếm đóng. Tuy nhiên, nhìn vào sự phát triển của lịch sử nhân loại, Nhật Bản đã vươn lên trở thành cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới trong một khoảng thời gian khá ngắn. Tự nhiên, chúng ta không thể bàn đến quyền lực chính trị và quân sự vào lúc này. Một số người Nhật mong muốn điều này, và mặc dù hiện tại điều này là không thể, nhưng không phải là không thể trong tương lai. Tóm tắt kinh nghiệm phát triển xã hội của loài người, sức mạnh của một quốc gia mạnh mẽ nằm ở: thứ nhất là sức mạnh quân sự, thứ hai là sức mạnh kinh tế, và thứ ba là nghệ thuật chính trị. Người Nhật không thiếu hai yếu tố sau, nhưng yếu tố đầu tiên bị ràng buộc bởi hiến pháp, mặc dù hiến pháp chỉ là một tờ giấy, mà tờ giấy ấy cũng do con người tạo ra. Điều mà một thế hệ tin tưởng, thế hệ tiếp theo không chắc chắn sẽ tin. Khi phong thủy thay đổi, tình hình sẽ rất khác biệt.
Đế Chế Mặt Trời đã ép buộc Hoa Kỳ phải hành động. Sức mạnh của nền kinh tế Nhật Bản đã gây ấn tượng sâu sắc đối với người Mỹ; trước khi Thế chiến II kết thúc, Benedict, một nhà nhân học văn hóa nổi tiếng, đã viết một cuốn sách gây chấn động mang tên The Chrysanthemum and the Sword (Hoa Cúc và Thanh Kiếm). Cuốn sách chứa đựng những phân tích sâu sắc về văn hóa Nhật Bản, nhưng mang sắc thái của một dân tộc bề trên nhìn xuống một dân tộc thấp kém. Nó giống như một nhà động vật học mô tả thói quen của khỉ đột hay khỉ vàng, chi tiết và chính xác, nhưng không có chút sự ngưỡng mộ nào. Một vài thập kỷ sau, một người Mỹ khác viết một cuốn sách có tên Japan as Number One (Nhật Bản là Số Một). Tác giả là giáo sư Harvard Ezra Vogel. Cuốn sách này không phải là trải nghiệm của một nhà động vật học, mà đầy sự khen ngợi và ghen tị. Sự thay đổi này thực sự rất ấn tượng.
Ngày 28 tháng 11 năm 1988, một người Nhật vô danh đã mua một bức tranh của Picasso từ năm 1905 tại một nhà đấu giá ở London và trả hơn 38 triệu USD, thiết lập mức giá kỷ lục cho một tác phẩm nghệ thuật thế kỷ 20, đứng thứ ba trong số những bức tranh đắt nhất thế giới. Điều này cho thấy sức mạnh của người Nhật. Cuộc xâm lược kinh tế của Nhật Bản vào Mỹ vượt xa cuộc ném bom bừa bãi trong ngày định mệnh tại Trân Châu Cảng. Trên các con phố của Mỹ, có những chiếc xe xe hơi Nhật Bản như Toyota, Honda, Nissan, v.v. Trong các cửa hàng điện tử, thậm chí còn có nhiều sản phẩm điện tử Nhật Bản, đủ loại. Người Nhật đang mua bất động sản tại Mỹ. San Francisco đầy người Nhật, và Honolulu được cho là đã trở thành “thế giới” của người Nhật. Người Nhật mua nhà và trả tiền mặt. Do sự xuất hiện của người Nhật, giá nhà đã tăng mạnh, và những người Mỹ không có tiền chỉ có thể hy vọng vào việc sở hữu nhà. Những tòa nhà cao tầng của IBM tại Atlanta đã được chuyển sở hữu sang cho người Nhật. Tôi đã đến thăm một trong những khu vườn đẹp nhất của đất nước tại St. Louis và cuối cùng đã thấy một phần lớn khu vườn Nhật. Tòa tháp Sears ở Chicago, tòa nhà cao nhất thế giới, gần đây đã được rao bán và có lo ngại rằng nó sẽ thuộc về người Nhật. Một người bạn của tôi nói rằng một số người Nhật mua nhà mà không bao giờ hỏi giá trước, lang thang quanh thành phố, và khi họ nhìn thấy một ngôi nhà mà họ thích, họ chỉ việc gật đầu và để ai đó mua nó. Đầu tư của người Nhật vào Mỹ đã tăng lên rất nhiều. Nhiều sản phẩm của Nhật Bản được sản xuất ngay trên đất Mỹ. Bóng dáng của Đế Chế Mặt Trời đang phủ bóng lên nước Mỹ.
Hãy xem xét một số con số nghiêm túc.
Dân số của Nhật Bản (năm 1985) là 120 triệu người, trong khi dân số của Hoa Kỳ là 289 triệu người. Diện tích đất của Nhật Bản là hơn 377.000 km², so với diện tích 9.372.000 km² của Hoa Kỳ. Tổng sản phẩm quốc dân (GNP) của Nhật Bản năm 1987 là 2.385 tỷ USD, trong khi của Hoa Kỳ là 4.488 tỷ USD. Tổng giá trị thương mại của Nhật Bản là 379 tỷ USD, còn của Hoa Kỳ là 677 tỷ USD. Về tỷ lệ diện tích đất so với dân số, sự khác biệt giữa GNP và tổng giá trị thương mại không đáng kể. Thương mại của Nhật Bản (năm 1987) chiếm 36,5% tổng lượng xuất khẩu và chỉ 21% lượng nhập khẩu đối với Hoa Kỳ, trong khi Hoa Kỳ (năm 1986) chỉ chiếm 11,9% tổng lượng xuất khẩu và 22,4% lượng nhập khẩu đối với Nhật Bản. Đầu tư cũng rất cao, và hiện nay Nhật Bản có các nhà máy tại nhiều tiểu bang của Hoa Kỳ. Về GNP trên đầu người, Nhật Bản đã vượt qua Hoa Kỳ, với con số năm 1985 là 16.709 USD cho Hoa Kỳ và 17.244 USD cho Nhật Bản. Từ năm 1981 đến 1985, tỷ lệ tăng trưởng GNP của Hoa Kỳ là 2,4%, trong khi của Nhật Bản là 4,1%. Khoảng cách thương mại giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản ngày càng rộng. Trong Thế chiến II, người Mỹ biết đến Nhật Bản vì chiến tranh. Ngày nay, người Mỹ biết đến Nhật Bản vì những thú vui mà quốc gia này mang lại. Sự xâm nhập của nền kinh tế Nhật Bản thể hiện qua việc nó chiếm lĩnh hầu hết các hộ gia đình Mỹ.
Sức mạnh của Đế Chế Mặt Trời đã phát triển như là một phản ứng hạt nhân: vào năm 1985, một đô la Mỹ trị giá 240 yên, hôm nay chỉ còn 130 yên. Susan Chira, viết cho New York Times (28 tháng 11, 1988), cho biết:
Các công ty Nhật Bản có thể dễ dàng vượt qua đối thủ cạnh tranh và mua lại bất động sản hoặc công ty của Mỹ.
Các nhà đầu tư Nhật Bản đã cho Hoa Kỳ vay một lượng tiền khổng lồ, chủ yếu thông qua việc mua trái phiếu của chính phủ Mỹ, và họ có thể làm rung chuyển thị trường.
Nhật Bản đã trở thành người cai trị của nền kinh tế địa phương; các loại tiền tệ của các quốc gia và khu vực khác không tăng giá nhanh chóng như đồng yên. Nhật Bản có những khoản đầu tư đáng kể vào Đài Loan và Hàn Quốc, và Nhật Bản có khả năng tác động đến những khu vực này.
Nhật Bản đã trở thành một siêu cường giàu có lớn hơn cả Hoa Kỳ. Nhật Bản đã quyên góp tiền cho các quốc gia đang phát triển và có sức mạnh mới để ảnh hưởng đến việc xây dựng chính sách kinh tế quốc tế.
Người Nhật hiện nay đã kiểm soát nền kinh tế Mỹ, và nhiều người Mỹ đang lo ngại về điều này. Trong bảy tháng đầu năm 1988, Nhật Bản đã chi 9 tỷ USD cho các công ty nước ngoài, trong đó có một số công ty Mỹ. Các thị trường và công ty của Mỹ đã rơi vào tay người Nhật.
Thách thức đối với Hoa Kỳ từ Đế Chế Mặt Trời là nghiêm trọng. Mặc dù không thể nói Nhật Bản đã thay thế Hoa Kỳ, cũng không thể nói điều đó sẽ xảy ra trong tương lai gần, nhưng thanh kiếm katana mạnh mẽ của Nhật Bản đang nhắm trực diện vào Hoa Kỳ. Nhật Bản thực sự đã trưởng thành dưới sự bảo vệ của Hoa Kỳ. Nhật Bản đã hưởng lợi từ sự chiếm đóng của Hoa Kỳ, từ chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Việt Nam. Các đặc điểm của hệ thống Nhật Bản hiện tại cũng là sản phẩm của người Mỹ. Tuy nhiên, ngày nay, Nhật Bản – quốc gia từng bị đánh bại – lại giàu có hơn cả Hoa Kỳ, quốc gia chiến thắng. Người Nhật cũng không giấu giếm cảm giác này và sẵn sàng thể hiện sự tự hào. Ở khá nhiều nơi, điều này giống như họ đang làm cho người Mỹ thấy, và đôi khi người Mỹ chỉ có thể đứng nhìn đầy sửng sốt. Theo nguyên lý của nền kinh tế tự do, không thể nào đẩy người Nhật ra được. Hơn nữa, nền kinh tế Hoa Kỳ thật sự đang chịu đựng đau đớn và không thể không nhìn lên người khác. Về mặt tâm lý và cảm xúc, người Mỹ không thích người Nhật.
Câu hỏi là tại sao lại kết thúc như vậy? Bên cạnh những lý do như hệ thống quản lý, sự khác biệt giữa hai nền văn hóa là một lý do quan trọng. Một hệ thống chắc chắn sẽ tạo ra những tác động không phụ thuộc vào ý chí con người, và một nền văn hoá vững chắc cũng sẽ tạo ra những ảnh hưởng không phụ thuộc vào ý chí con người.
Sự kết thúc của cuộc cạnh tranh kinh tế giữa Hoa Kỳ và Nhật Bản là sản phẩm của các gen văn hóa khác nhau của hai quốc gia. Trong một phạm vi lớn, đây chủ yếu là sự ràng buộc văn hóa hơn là ràng buộc thể chế. Một số người cho rằng Hoa Kỳ và Nhật Bản có ưu thế hơn nền văn hóa phương Đông.
Vậy, những yếu tố nào đang tác động? Rất khó để liệt kê hết ở đây, nhưng tôi chỉ có thể đưa ra một cái nhìn tổng quan.
Văn hóa Nhật Bản thúc đẩy chủ nghĩa tập thể, trong khi văn hóa Mỹ lại thúc đẩy chủ nghĩa cá nhân. Sản xuất hàng loạt hiện đại là về phân chia lao động và hợp tác, và gen chủ nghĩa tập thể trong văn hóa Nhật Bản phù hợp hơn với sản xuất hợp tác. Chủ nghĩa cá nhân của người Mỹ thường từ chối sự hợp tác quy mô lớn hoặc không chú ý đến sự hợp tác, và người Mỹ luôn coi trọng địa vị cá nhân. Người Mỹ có xu hướng nghĩ về thành công cá nhân, trong khi người Nhật thường được dẫn dắt để nghĩ về thành công tập thể. Tinh thần đoàn kết trong các công ty lớn của Nhật Bản rất khó tìm thấy ở Hoa Kỳ. Người Nhật có thể dành cả đời để cống hiến cho một công ty và làm một phần nhỏ trong công việc. Người Mỹ, e rằng, khó có thể làm được điều này. Chủ nghĩa tập thể có mặt lợi và mặt hại đối với sự phát triển của xã hội, nhưng rõ ràng rằng chủ nghĩa tập thể đoàn kết nhiều hơn chủ nghĩa cá nhân.
Văn hóa Nhật Bản chú trọng vào sự cống hiến cá nhân, trong khi văn hóa Mỹ chú trọng vào sự tận hưởng cá nhân. Văn hóa Mỹ chú trọng hưởng thụ (hedonistic). Công việc là để mang lại niềm vui, người Mỹ không bao giờ gặp khó khăn với chính mình, và tiền thì được chi tiêu. Người Mỹ có tiết kiệm lớn là những cá thể hiếm hoi. Nhiều người thường không biết sẽ lấy tiền ở đâu cho ngày mai. Người Mỹ vay tiền để mua nhà, xe cộ, học đại học, v.v… Họ chi tiêu trước, rồi sau đó mới tính đến.
Văn hóa Nhật Bản không coi trọng vị trí cá nhân cao, cũng không nhấn mạnh đến sự hưởng thụ cá nhân, mà ngược lại, khuyến khích sự cống hiến cá nhân. Nam giới Nhật Bản làm việc rất chăm chỉ, nhiều người phải làm việc đến tận nửa đêm, làm việc nhiều giờ tự giác và tự nguyện, không có chế độ trả lương làm thêm giờ. Tôi đã được nghe rằng nếu một người đàn ông Nhật Bản không làm việc đến nửa đêm ở công ty, mọi người sẽ cho rằng anh ta không có động lực và không được coi trọng.
Mức sống của người Mỹ có thể là một trong những mức sống cao nhất trên thế giới, vượt qua Nhật Bản về nhà ở, giao thông, giáo dục, thực phẩm và môi trường, mặc dù thu nhập bình quân đầu người không cao bằng Nhật Bản. Văn hóa hưởng thụ đã dẫn dắt người dân chi tiêu một khoản tiền lớn cho các phúc lợi thay vì đầu tư. Người Nhật điển hình là “những con thú kinh tế” với một mong muốn mạnh mẽ về đầu tư, nhưng không chú trọng đến việc tận hưởng cá nhân như người Mỹ.
Văn hóa Nhật Bản là một văn hóa điều tiết và văn hóa Mỹ là một văn hóa “không can thiệp”. Văn hóa Nhật Bản tạo ra một bầu không khí mà mọi người chấp nhận việc quản lý nghiêm ngặt, vì vậy toàn bộ cơ chế kinh tế và xã hội được tổ chức chặt chẽ hơn và toàn bộ hệ thống hoạt động đồng nhất hơn. Cơ chế này, khi được sử dụng cho sự phát triển kinh tế, chắc chắn sẽ phát huy một năng lượng khổng lồ.
Người Mỹ khó có thể chấp nhận kiểu quản lý của Nhật Bản; người Mỹ có tính cách phân tán, thoải mái hơn, và hoạt động của “cỗ máy” diễn ra theo cách dân chủ hơn. Người Nhật bị ép buộc bởi cấp trên để chiến đấu cho cả thế giới, và họ phải chiến đấu. Người Mỹ thường chiến đấu vì động cơ cá nhân của họ, và chỉ thị từ cấp trên có thể bị từ chối một cách dân chủ, và cấp trên có thể chấp nhận điều đó. Không có những câu chuyện như vậy ở Nhật Bản, hoặc nếu có, thì cũng rất ít.
Và v.v… Câu hỏi được đặt ra ở đây không chỉ là sự khác biệt giữa hai nền văn hóa, mà còn là yêu cầu phải đánh giá lại hai thể chế này. Hệ thống của Mỹ, thường dựa trên chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa hưởng thụ và dân chủ, rõ ràng đang thua kém so với một hệ thống của chủ nghĩa tập thể, sự quên mình và chủ nghĩa độc tài. Có thể người Mỹ sẽ thà thua về mặt kinh tế chứ không chịu từ bỏ thể chế của họ. Hệ thống này đảm bảo sự thực hiện niềm tin và cũng đảm bảo một mức độ thịnh vượng nhất định cho xã hội. Tuy nhiên, bối cảnh thế giới hiện nay dường như chỉ ra rằng hệ thống này khó có thể là đảm bảo cho vị thế phát triển mạnh mẽ nhất của Mỹ. Người ta thường phải đối mặt với sự lựa chọn giữa việc duy trì một hệ thống giá trị hay theo đuổi một hệ thống hiệu quả hơn – nhưng lại trái ngược với hệ thống giá trị truyền thống. Đôi khi câu hỏi là liệu một nền văn hóa nhất định có thể cho phép một xã hội chọn lựa một hệ thống hoàn toàn khác biệt hay không, và thường thì câu trả lời là không. Mặt khác, có lẽ người Mỹ sẽ không chấp nhận văn hóa Nhật Bản. Người Mỹ có xu hướng ít quan tâm đến văn hóa Nhật Bản, và nhiều người tin rằng người Nhật đang sống trong một môi trường văn hóa chưa phát triển. Về vấn đề này, nhiều người Mỹ coi thường người Nhật. Rào cản tâm lý này sẽ đảm bảo rằng Hoa Kỳ không phát triển nhanh hơn Nhật Bản, và cũng sẽ khiến người Mỹ gặp khó khăn trong việc cuối cùng chấp nhận Đế Chế Mặt Trời.
Hoa Kỳ ngày nay đang đối mặt với một thách thức từ Nhật Bản, phần lớn là vì các thể chế, văn hóa và giá trị của Mỹ đang đối lập với chính nước Mỹ. Sau Thế chiến II, Hoa Kỳ đã có điều kiện thuận lợi về thời gian, địa điểm và con người để phát triển xã hội và kinh tế với tốc độ đáng kinh ngạc. Tuy nhiên, sau ba hoặc bốn mươi năm, vị thế của Hoa Kỳ đã bị thách thức mạnh mẽ và quyết liệt. Có thể nói Nhật Bản chỉ là quốc gia đầu tiên thách thức Hoa Kỳ. Trong thế kỷ tới, nhiều quốc gia khác chắc chắn cũng sẽ thách thức Hoa Kỳ. Lúc đó, người Mỹ sẽ thực sự suy ngẫm về chính trị, kinh tế và văn hóa của họ.
Tất nhiên, trong trường hợp giữa Nhật Bản và Hoa Kỳ, không thể nói Nhật Bản sẽ vượt qua Hoa Kỳ về tài nguyên và lãnh thổ. Vấn đề là sự tồn tại của tất cả các yếu tố và lực lượng tương phản trong xã hội Mỹ, nếu chúng tiếp tục phát triển theo cách này, sẽ không chỉ khiến những ưu thế của họ không thể phát huy mà còn tạo ra một làn sóng khủng hoảng không thể ngừng lại.