Tác giả: Vương Hỗ Ninh
Chương 3. Tính cách dân tộc đa dạng
Bài 10. Con người vẫn luôn là con người
Người ta thường tin rằng các mối quan hệ con người trong xã hội Mỹ đơn giản và ít phức tạp hơn, và con người sống trong xã hội dựa trên năng lực, kiến thức, và tiền bạc, hơn là dựa trên các mối quan hệ, gia đình và những yếu tố khác. Đây được xem là điểm khác biệt lớn nhất giữa xã hội phương Đông và phương Tây. Văn hóa phương Đông, đặc biệt trong vòng tròn văn hóa Nho giáo, nhấn mạnh đến thân phận, kỷ luật, lễ nghi và huyết thống; trong khi văn hóa phương Tây lại đề cao tài năng, pháp luật, lợi ích và quyền lực. Nói chung, và chỉ ở mức độ chung chung, sự phân chia này có thể chấp nhận được. Nhưng không nên cho rằng điều này hoàn toàn đúng với xã hội Mỹ và phương Tây. Cũng như các mối quan hệ không phải lúc nào cũng dựa vào những yếu tố trên ở xã hội phương Đông, thì ở xã hội phương Tây cũng không phải lúc nào cũng như vậy.
Do nền kinh tế phát triển và sự dư thừa vật chất, có một số vấn đề ở xã hội Mỹ được giải quyết dễ dàng hơn và không đòi hỏi quá nhiều quy trình phức tạp. Một người làm công việc khó khăn và mệt nhọc nhất (sửa đường, dọn dẹp, khuân vác, v.v.) sau khi nhận tiền lương có thể mua bất cứ món hàng nào trong cửa hàng, có thể nghỉ lại khách sạn hạng sang, có thể đến bất kỳ nhà hàng nào để ăn uống. Hầu hết những điều mà người giàu làm được thì người có tiền cũng làm được. Đây là điều mà Marcuse gọi là sự đồng hóa hoặc hội nhập. Marcuse chỉ trích điều này, cho rằng cơ chế này làm đồng hóa các tầng lớp xã hội, khiến tầng lớp lao động hòa nhập vào hệ thống tư bản và không nhận thức được sự bóc lột và áp bức của mình. Đây là kết quả của một nền kinh tế hàng hóa phát triển cao. Sự lưu thông hàng hóa đầy đủ đã hài hòa các mâu thuẫn xã hội. Thực tế, trong nhiều xã hội, nguyên nhân của các mâu thuẫn xã hội là do sự khan hiếm hàng hóa. Người dân bình thường không suy nghĩ nhiều về những vấn đề lớn lao, sâu sắc; họ nghĩ nhiều hơn về ăn uống, quần áo và nhà cửa của chính mình. Mục tiêu của sự phối hợp xã hội không phải là giải thích một lý thuyết vĩ đại một cách tinh vi, mà là đáp ứng các nhu cầu hàng ngày của người dân bình thường.
Nói một cách trừu tượng, các mối quan hệ trong xã hội Mỹ ít phức tạp, nhưng các tương tác giữa người với người cũng kém sâu sắc hơn. Cốt lõi của đời sống Mỹ là bảo vệ không gian riêng tư. Do vậy, rất ít người thích việc người khác xâm phạm quá nhiều vào không gian của mình, hoặc ngược lại, mình xâm phạm quá nhiều vào không gian của người khác. Điều này khác với văn hóa phương Đông. Vì vậy, khái niệm về “bạn bè” ở Mỹ khác với văn hóa phương Đông. Một người bạn có thể là người quen, hoặc người bạn gặp ở trường, nhà thờ, sân thể thao, hay nơi làm việc. Nhưng những tương tác này không sâu sắc, và hiếm khi có được một tình bạn thân thiết. Người Mỹ dễ dàng có những tình bạn nhanh, nhưng không phải tình bạn sâu sắc. Người Trung Quốc cũng vậy, dễ có những tình bạn nhanh, nhưng không sâu sắc. Có sự di động xã hội rất lớn, với khoảng một phần năm các gia đình Mỹ chuyển nhà mỗi năm, và sự dư dả về vật chất tạo điều kiện cho lựa chọn này. Sự di động cao này tạo ra hai động lực: một là vì phải chuyển nhiều nên cần cơ chế để nhanh chóng tìm bạn mới; hai là sự di động này làm khó hình thành những tình bạn thực sự bền vững, không thể phá vỡ. Các tương tác không phải quan hệ huyết thống thường hình thành từ thời thanh thiếu niên và tuổi trẻ. Khi đã lập gia đình, khó có thể xây dựng những tình bạn sâu sắc vì năng lượng, tài chính và văn hóa không cho phép. Thời thanh thiếu niên và tuổi trẻ dễ dàng hơn để làm điều này. Sau khi sống ở một nơi hơn mười năm, bạn sẽ trải qua tuổi thơ và tuổi thiếu niên với một nhóm người. Mọi chuyện thay đổi khi bước vào đại học. Cơ chế đại học cũng làm khó hình thành tình bạn sâu sắc; sinh viên đại học phần lớn sống cô lập, không có khái niệm về lớp học cố định, họ chọn môn học riêng và rồi rời xa nhau vào học kỳ tiếp theo. Điều kiện nhà ở tốt cũng khiến con người sống tách biệt, cũng như đại học và xã hội. Người Mỹ sống một mình trong thời gian dài, nên họ thường có tâm lý hướng nội, thụ động, không biết có nên tiếp xúc với người lạ hay không.
Điều này càng đúng với người nước ngoài, họ hiếm khi chủ động tiếp xúc với người Mỹ. Mặc dù khái niệm “người nước ngoài” có phần xa lạ với người Mỹ, họ cũng thường không phân biệt ai là “người nước ngoài” và ai là “người bản địa”. Thực tế, rất khó phân biệt, ngoại trừ việc người nước ngoài thường nghĩ trong đầu mình rằng mình là người nước ngoài, trong trường hợp này họ dễ nhận diện hơn. Nhưng người Mỹ thường rất thân thiện nếu người nước ngoài chủ động tiếp xúc. Còn nhiều điều tương tự khác.
Một số người cho rằng điều này tốt cho sự phát triển của xã hội vì không có những quan hệ xã hội phức tạp và ai cũng có thể tự sống theo khả năng của mình. Một số khác thì cho rằng điều này không tốt cho sự phát triển xã hội, vì không có tình bạn sâu sắc giữa con người, tình cảm con người trở nên mỏng manh, và đời sống xã hội thiếu sự hài hòa.
Những điều trên chỉ là những nhận xét chung chung, thực tế khi nhìn vào xã hội Mỹ, các mối quan hệ con người không phải là không quan trọng mà rất quan trọng. Con người luôn là con người, và nếu không có các mối quan hệ thì xã hội làm sao có thể bền vững được? Ở nhiều khía cạnh, các mối quan hệ con người rất giống với những gì xảy ra trong văn hóa phương Đông. Một vị giáo sư từng nói với tôi rằng ở Mỹ, người ta có thể sống tốt mà không cần đến các mối quan hệ, nhưng nếu có thì cuộc sống sẽ tốt hơn. Tôi e rằng đây là một đánh giá khách quan hơn. Thực ra, đây không phải là hiện tượng riêng biệt của một dân tộc nào mà chỉ là mức độ khác nhau dưới các điều kiện văn hóa và phát triển kinh tế khác nhau. Tôi có thể đưa ra một vài ví dụ về tư duy của người Mỹ.
Trong chính trị, vai trò của các mối quan hệ rất rõ ràng. Một trong những tranh cãi lớn trong chiến dịch tranh cử tổng thống năm 1988 là ứng cử viên phó tổng thống của đảng Cộng hòa, Quayle, người không được dư luận đánh giá là một nhân vật nổi bật hoặc tiến lên bằng chính nỗ lực của mình, mà là nhờ gia đình giàu có, thu nhập hai triệu đô la một năm. Ông ấy học hành không tốt, từng có một số lời bàn về việc trốn nghĩa vụ quân sự, v.v. Sức mạnh của gia đình vẫn rất quan trọng ở Mỹ. Không có gia đình có nền tảng thì một người có thể thành công, nhưng có nền tảng gia đình thì cơ hội thành công càng cao hơn. Gia đình Kennedy là một ví dụ điển hình. Khi George W. Bush trở thành tổng thống, ông có quyền bổ nhiệm tất cả các quan chức chính trị, và nhiều người bạn cũ của ông được giao các vị trí cao, dù dư luận không ủng hộ một số trong họ. Tôi sẽ không đi sâu vào các hiện tượng này trong chính trị, vì sẽ bàn kỹ hơn sau.
Một giáo sư nghiên cứu về các vấn đề châu Phi từng nói với tôi rằng để làm nghiên cứu tốt, ông phải thực hiện công tác thực địa ở nhiều quốc gia và vùng miền ở Đông Phi, và để làm điều đó ông không thể tham gia các lớp học trong khoa. Ông đã được trưởng khoa đồng ý cho phép. Các giáo sư khác trở nên ghen tị; họ không nói gì trên mặt nhưng đằng sau lại có nhiều lời đồn đoán rằng vị giáo sư này được ưu đãi quá mức khi không phải dạy mà lại được đi nước ngoài và vẫn nhận lương. Trong khi đó, họ thì cảm thấy quá thiệt thòi. Tôi hỏi ông ấy làm sao có được sự cho phép của trưởng khoa. Ông nói trưởng khoa có mối quan hệ tốt với ông. Ông đang lên kế hoạch đưa trưởng khoa đi một chuyến tham quan danh lam thắng cảnh ở một quốc gia châu Phi đồng thời thuyết giảng thêm bên lề. Vị giáo sư này là người rất đàng hoàng, nhưng ông biết cách đạt được mục đích của mình.
Khi tôi đến thăm một trường đại học ở Bờ Đông, một người bạn nói với tôi rằng các mối quan hệ giữa các giáo sư trong khoa rất phức tạp, với những mâu thuẫn và phản bội lẫn nhau. Đôi khi có tranh luận ngay trong lớp học. Có một giáo sư chỉ trích một trường phái tư tưởng trong lớp vì thiếu lý thuyết và dữ liệu trừu tượng, và một giáo sư khác trong phòng lập tức yêu cầu ông ấy nói cụ thể hơn. Thực ra đó là mâu thuẫn giữa hai người họ. Các giáo sư thường xem những người cùng lĩnh vực là đối thủ cạnh tranh. Tất nhiên cũng có những mối quan hệ hòa hợp.
Trong xã hội lao động, các mối quan hệ còn quan trọng hơn, mối quan hệ với sếp, với trưởng nhóm, ảnh hưởng trực tiếp đến địa vị và tương lai của một người. Tôi nghĩ điều này cũng đúng trong các cơ sở giáo dục đại học, chưa nói đến các lĩnh vực khác.
Ở một trường đại học, các giáo sư chính thức có chức danh toàn phần (full professor) và có vị trí ổn định (tenure) nắm giữ quyền lực trong khoa, trong khi những người khác thì ít quyền lực hơn. Các giáo sư toàn phần có thể quyết định việc thăng chức và giữ lại nhân sự khác, và mối quan hệ quyền lực này quyết định mối quan hệ cơ bản giữa các giáo sư trong khoa. Mong muốn của các giảng viên khác là có quan hệ tốt với các giáo sư toàn phần là rất rõ ràng. Tôi không nói rằng mối quan hệ này vốn dĩ là xấu, nhưng tôi đang cố gắng minh họa sự tồn tại của các mối quan hệ cá nhân.
Một sự kiện đáng chú ý khác là một tình huống tại một trường đại học cho thấy rõ người Mỹ không coi thường các mối quan hệ con người. Một đoàn đại biểu từ cộng đồng doanh nghiệp Nhật Bản đến thuyết trình tại trường, đại diện cho một số tập đoàn lớn và các viện học thuật quan trọng của Nhật. Người Nhật giàu có và đã được thế giới biết đến. Trong buổi tiếp đón, nhiều người Mỹ đối xử với các đại diện Nhật rất tôn trọng và tìm cách trò chuyện. Một nữ quan chức địa phương còn nắm tay một người đàn ông Nhật trong vài phút, cười tươi và nói thẳng rằng ông ta có chiếc cà vạt đẹp. Tôi cảm thấy không thoải mái khi nhìn cảnh đó. Thực ra, bà ấy đang cố gắng thu hút đầu tư từ Nhật cho khu vực của mình. Người Mỹ phần lớn khinh thường người Nhật, nhưng thái độ bên ngoài với người Nhật và suy nghĩ bên trong thì khác nhau.
Có rất nhiều ví dụ về các mối quan hệ cá nhân. Nhưng vai trò và cơ chế của chúng khác biệt và không quan trọng như trong các xã hội phương Đông. Hệ thống Mỹ đưa ra một điều kiện: khi có cơ hội tốt thì có thể chuyển đi. Ở các công ty tư nhân, việc một người rời bỏ chỗ này để tìm việc ở chỗ khác là chuyện bình thường. Nhưng ở một số xã hội không có cơ chế này, các yếu tố cá nhân quyết định nhiều hơn rất nhiều. Các tổ chức xã hội, sự sung túc về vật chất và tư duy văn hóa quyết định rằng các mối quan hệ cá nhân ở Mỹ khác với các xã hội phương Đông. Nhưng nói rằng các mối quan hệ con người không được coi trọng và không cần thiết ở đây thì sẽ là lý tưởng hóa quá mức.
Con người luôn là con người, và họ sẽ đáp lại bất kỳ sự tử tế hay thù hận nào. Con người luôn là con người, con người có cảm xúc, con người có nhu cầu. Mức độ hiện đại hóa có thể thay đổi bản chất con người đến đâu là điều cần phải được nghiên cứu kỹ lưỡng.