Tác giả: Vương Hỗ Ninh
Chương 3. Tính cách dân tộc đa dạng
Bài 5. Hướng đi sai lầm của chương trình Tàu Con Thoi
Tàu con thoi Discovery được phóng thành công và bay thẳng vào bầu trời xanh. Tất cả các mạng truyền hình đều phát sóng trực tiếp cảnh này. Việc phóng tàu là một sự kiện đặc biệt đối với Hoa Kỳ, quốc gia không phóng tàu con thoi nào trong hơn hai năm kể từ tháng 1 năm 1986. Năm đó, thế giới chấn động bởi vụ nổ của tàu Challenger và cái chết bi thảm của các phi hành gia. Hai năm rưỡi sau, Discovery được phóng, thực hiện ước mơ của nhiều người.
Chương trình tàu con thoi là minh chứng rõ nhất cho tinh thần Mỹ, hoặc như Commager đã nói, niềm tin của người Mỹ rằng không có gì là bất khả thi và họ sẽ không ngừng nghỉ cho đến khi đạt được tất cả. Việc khám phá không gian thể hiện niềm tin này. Quá trình chế tạo, phóng và điều khiển tàu con thoi vô cùng phức tạp. Chỉ cần nhìn vào hàng trăm máy tính trong trung tâm điều khiển cũng đủ để hình dung khả năng công nghệ cần thiết. Kể từ vụ tai nạn Challenger, ngành vũ trụ Hoa Kỳ đã mất hai năm rưỡi để cải tiến chương trình, với tổng cộng hơn bốn trăm cải tiến kỹ thuật. Niềm tin của người Mỹ là như đã nêu ở trên, vì vậy họ tự tin rằng mình có thể tìm ra cách và kiên trì. Tinh thần này đã thúc đẩy họ thực hiện nhiều ý tưởng táo bạo đến mức đáng kinh ngạc, như chương trình Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao, Tàu Con Thoi, v.v., và cũng thúc đẩy họ chấp nhận nhiều phát minh nhỏ bé, dường như không đáng kể, như máy mở phong bì, máy mở lon, máy gọt bút chì điện, v.v. Có thể nói rằng niềm tin này là một lực đẩy rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của xã hội.
Tuy nhiên, niềm tin này cũng có thể gây ra sự xa cách. Niềm tin này thúc đẩy người Mỹ tìm ra giải pháp cho các vấn đề họ đối mặt, dẫn đến trình độ phát triển khoa học và công nghệ cao, nhưng sự phát triển khoa học và công nghệ ở mức cao thường đi kèm với ảo tưởng rằng không phải con người cuối cùng giải quyết vấn đề, mà khoa học và công nghệ trở thành quyền lực tối cao và con người trở thành nô lệ của nó.
Tôi và một giáo sư đã thảo luận về vấn đề này và cảm thấy đồng quan điểm. Ảo tưởng này chi phối một phần lớn của xã hội. Khi đối mặt với một số vấn đề xã hội và văn hóa phức tạp, người Mỹ có xu hướng coi đó là vấn đề khoa học và công nghệ. Hoặc đó là vấn đề tiền bạc (kết quả của tinh thần thương mại hóa), thay vì vấn đề con người, của tính chủ thể. Điều này cũng đúng trong lĩnh vực chính trị. Cách tiếp cận đối với sự gia tăng sức mạnh của Liên Xô là phát triển điên cuồng các thiết bị vượt trội hơn hệ thống vũ khí của Liên Xô, bao gồm cả chương trình Chiến Tranh Giữa Các Vì Sao được đề xuất sau này. Cách đối phó với khủng bố là tấn công đối phương bằng các lực lượng tấn công tiên tiến. Cách đối phó với các mối đe dọa trên vùng biển quốc tế là một hạm đội mạnh mẽ và được trang bị tốt. Cách đối phó với các chế độ không được ưa thích là cung cấp cho phe đối lập nhiều vũ khí tiên tiến. Minh họa điển hình nhất cho điều này là các thiết bị mà người khuyết tật nhận được, như xe lăn điều khiển tự động, thiết bị phục vụ bên giường tự động, và kính dẫn đường cho người mù. Người khuyết tật được tự do di chuyển. Nhưng với tư cách là con người, các vấn đề của họ không được giải quyết. Điều này cũng đúng trong lĩnh vực chính trị và quan hệ quốc tế.
Một mặt, con người tin tưởng quá mức vào công nghệ, và mặt khác, công nghệ đã trở thành chính trị. Sau khi tàu Discovery được phóng thành công, Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Kennedy, Forrest McCartney, nói: “Hôm nay, mọi người Mỹ chắc hẳn đã phải ngẩng cao đầu.” Tổng thống Reagan theo dõi sự kiện này trên truyền hình từ Washington, D.C., và phát biểu: “Nước Mỹ đã trở lại với không gian.” Trên thực tế, chương trình không gian từ đầu đã mang một sức nặng chính trị. Vào những năm 1960, Liên Xô đã thành công trong việc đưa người lên Mặt Trăng, và người Mỹ phẫn nộ đến mức Tổng thống Kennedy ra lệnh triển khai toàn lực cho chương trình không gian, tiếp theo là cuộc đổ bộ Mặt Trăng của Apollo, vượt xa Liên Xô một khoảng cách lớn. Đằng sau sự cạnh tranh công nghệ là sự cạnh tranh chính trị, sự cạnh tranh chính trị cần sự cạnh tranh công nghệ và sự cạnh tranh công nghệ hỗ trợ cho cạnh tranh chính trị.
Một hướng đi quan trọng của nhân loại trong thế kỷ hai mươi là sự tích hợp cao độ giữa chính trị và công nghệ. Chính trị không có công nghệ không thể là một chính trị mạnh mẽ, và dĩ nhiên, công nghệ không có chính trị cũng không thể là một công nghệ mạnh mẽ.
Kết quả của sự kết hợp giữa công nghệ và chính trị này là bản thân công nghệ đã bị tha hóa. Hiện tượng này đặc biệt rõ rệt ở Hoa Kỳ. Đôi khi không phải con người làm chủ công nghệ, mà công nghệ làm chủ con người. Nếu bạn muốn vượt qua người Mỹ, bạn phải làm một điều: vượt qua họ về khoa học và công nghệ. Đối với nhiều dân tộc khác, điều này không hiệu quả; chỉ có công nghệ thôi là chưa đủ, mà còn cần các điều kiện văn hóa, tâm lý và xã hội học.
Người Mỹ đã ở vị trí đặc quyền trong một thời gian dài, gần như từ Thế chiến thứ Nhất, khi vị trí đặc quyền của họ được hình thành. Trong bảy mươi năm, Hoa Kỳ đã trải qua vài thế hệ, và những người sinh sau Thế chiến thứ Hai giờ đây đã ở độ tuổi bốn mươi. Thế hệ người Mỹ này lớn lên trong bầu không khí “Nước Mỹ Trên Hết (America First)”, và một định kiến tâm lý đã được hình thành. Kết quả là Hoa Kỳ trở thành một quốc gia không thể chấp nhận thất bại. Sự vượt trội về công nghệ dần phát triển thành sự vượt trội quốc gia, và họ không thể tưởng tượng rằng bất kỳ quốc gia nào có thể vượt qua mình. Sự trỗi dậy nhanh chóng của Nhật Bản trong vài thập kỷ sau chiến tranh đã dẫn đến sự phát triển đặc biệt nhanh trong lĩnh vực công nghệ cao, vượt qua Hoa Kỳ ở một số khía cạnh, như sản phẩm điện tử và xe hơi. Các sản phẩm Nhật Bản tràn ngập thị trường Mỹ, và tiền của Nhật Bản đổ vào Hoa Kỳ. Một số người nói rằng nhiều bất động sản ở Hawaii đã rơi vào tay người Nhật, vì người Nhật đến mua nhà, khiến giá đất tăng vọt. Người Mỹ không chấp nhận điều này, thường khinh miệt người Nhật và luôn nói về họ với thái độ coi thường. Trong một thời gian dài, người Mỹ không muốn công nhận thành công của Nhật Bản. Giáo sư Harvard Ezra Vogel đã dành nhiều công sức để khiến người Mỹ hiểu rõ điểm này. Cuốn sách Japan as Number One (Nhật Là Số Một) của ông đã đánh thức người Mỹ như từ một giấc mơ. Một tình huống tương tự, tôi nghĩ, người Mỹ sẽ gặp lại.
Sự giao thoa tuyệt vời giữa chính trị và công nghệ cũng liên quan đến tàu con thoi. Và công nghệ cao này là một phản ánh tập trung của mối quan hệ đó. Một số học giả đã nhận ra điều này và bắt đầu phê phán sự “tha hóa” này. Một giáo sư vật lý, Allen, đã lập luận rằng sau thất bại phóng tàu Challenger, NASA đã ưu tiên một vụ phóng thành công để cứu vãn thể diện và vì động cơ chính trị. Khi tôi nói về sự định hướng sai lầm của tàu con thoi, tôi đang nói một cách ẩn dụ, nhưng thực chất tôi đang đề cập đến sự định hướng sai lầm của khoa học và công nghệ. Có thể mất nhiều thế hệ để người Mỹ nhận ra “sự định hướng sai lầm” này.