Nước Mỹ chống nước Mỹ. Chương 2, Bài 5: Hai trăm năm Hiến pháp

Tác giả: Vương Hỗ Ninh

Chương 2. Tinh thần chính trị cổ đại

Bài 5. Hai trăm năm Hiến pháp

Có một sự kết nối lịch sử giữa các thành phố Philadelphia và Washington. Philadelphia là một địa điểm quan trọng trong cuộc Cách mạng Mỹ, và vào năm 1787, một hội nghị được tổ chức tại Philadelphia để soạn thảo Hiến pháp. Hiến pháp này đã tồn tại đến ngày nay và có thể được gọi là bản hiến pháp viết lâu đời nhất trên thế giới. Vào năm 1988, lễ kỷ niệm hai trăm năm Hiến pháp đã được tổ chức dưới Tượng Nữ thần Tự do, và Reagan đã đến đó để phát biểu. Người Mỹ tự hào nhất về Hiến pháp của mình. Khi tôi ở Philadelphia, tôi đã thăm tòa nhà nơi Hiến pháp được soạn thảo, nhưng tôi chỉ nhìn từ bên ngoài vì nơi đó rất đông đúc. Khi tôi ở Annapolis, tôi đã thấy một bản sao viết tay của Hiến pháp Mỹ, chỉ vài tờ giấy vàng, nhưng làm sao nó có thể có vai trò quan trọng đến vậy? Nền tảng chắc chắn không chỉ nằm ở những tờ giấy vàng đó.

Hiến pháp của Hoa Kỳ là sản phẩm của cuộc Chiến tranh Giành Độc lập. Quá trình tiến hóa gây chú ý này kéo dài khoảng hai mươi năm: từ 1770 đến 1790, khi Hoa Kỳ có mười ba thuộc địa tách biệt dưới sự cai trị của Anh. Năm 1774, Quốc hội Lục địa đầu tiên được tổ chức, với 55 đại biểu từ mười ba thuộc địa gặp nhau tại Philadelphia để thảo luận về các vấn đề chung. Năm 1775, cuộc chiến giữa các thuộc địa và Anh bùng nổ, với trận đánh ác liệt tại những vùng đất ngày nay là Massachusetts. Năm 1776, nhà tư tưởng chính trị Mỹ Thomas Paine xuất bản cuốn sách Common Sense, kêu gọi độc lập. Năm 1782, khi cuộc Chiến tranh Giành Độc lập gần kết thúc, các cuộc đàm phán hòa bình được tổ chức tại Paris và một thỏa thuận được ký kết. Năm 1787, Hiến pháp được soạn thảo. Năm 1788, một số bang đủ điều kiện đã phê chuẩn dự thảo hiến pháp và nó bắt đầu có hiệu lực. Năm 1789, George Washington được bầu làm tổng thống của Hoa Kỳ. Năm 1791, Tuyên ngôn về Quyền con người được bổ sung vào Hiến pháp. Đây là cột mốc chính trong sự phát triển chính trị của thời kỳ đó. Rõ ràng từ đây, Hiến pháp Mỹ được sinh ra từ cuộc đấu tranh giành độc lập, và các điều khoản cơ bản của nó chắc chắn được thiết kế để bảo vệ những lợi ích nhất định.

Đây là mục đích của các người soạn thảo Hiến pháp. Vào thời điểm đó, 13 bang đã cử 55 đại biểu đến Philadelphia. Việc soạn thảo Hiến pháp là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng họ đã hoàn thành trong một mùa hè. Có lẽ đó là vì các mối quan hệ chính trị, xã hội và văn hóa chưa phát triển như hiện nay. Nếu việc này được thực hiện ngày nay, tôi e rằng sẽ không thể tạo ra một bản hiến pháp trong vòng hai năm. Washington, Hamilton, Madison và Franklin đều tham gia vào công việc này. Những người này chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các nhà tư tưởng của Thời kỳ Khai sáng châu Âu, và họ quen thuộc với tác phẩm  Two Treatises of Government (Hai Khảo Luận về Chính Quyền)của Locke, The Commonwealth of Oceana (Nền Cộng hòa Oceana) của Harrington và On the Spirit of the Laws (Bàn về Tinh thần Pháp luật) của Montesquieu. Đồng thời, họ cũng có rất nhiều kinh nghiệm thực tế. Người ta nói rằng 20 trong số họ đã tham gia vào việc soạn thảo hiến pháp các bang và am hiểu về vấn đề này. 30 người trong số họ đã tham gia vào các cơ quan lập pháp của các bang. Họ quen thuộc với những ưu và nhược điểm của quan chức, và họ cũng đã đặt nền móng cho bản hiến pháp.

Một điều kiện lịch sử đáng chú ý khi soạn thảo Hiến pháp là nó là sự tiếp nối của cùng một hệ thống, nhưng với một hình thức tổ chức khác. Vào thời điểm Chiến tranh Độc lập Mỹ, nước Anh đã hoàn thành cuộc “Cách mạng Vinh quang” được 100 năm, và các nhà cai trị Anh không còn là giới quý tộc phong kiến truyền thống nữa. Do đó, đối với Hoa Kỳ, đây cơ bản là một hệ thống mới mô phỏng theo các nguyên lý chính trị của Anh. Nói cách khác, những người bị trị muốn sống giống như những người cai trị. Và vấn đề mà các cuộc cách mạng ở nhiều quốc gia phải đối mặt là thay đổi các nguyên lý chính trị, điều này khó khăn hơn nhiều vì không ai biết thực hành các nguyên lý mới, đã có một khoảng trống, như các cuộc cách mạng tư sản Anh, cách mạng tư sản Pháp, cách mạng Nga và cách mạng Trung Quốc. Tất nhiên, ở các quốc gia như Anh, Pháp, Nga và Trung Quốc, ảnh hưởng của hệ thống cũ quá mạnh mẽ đến mức nó cũng tạo ra những khó khăn trong việc thiết lập một hệ thống mới.

Từ kinh nghiệm của chính mình, những mối quan tâm chính của người Mỹ khi soạn thảo Hiến pháp là quyền lực của chính phủ và tự do của cá nhân.

Việc tách rời các thuộc địa khỏi người Anh cũng đã tạo ra các điều kiện cho việc hình thành một hệ thống chính trị. Sự tách rời này khiến không một bang nào có thể thống trị các bang khác, các vấn đề chính trị phải được thương lượng, và những người soạn thảo hiến pháp có sự hậu thuẫn từ các bang và có rất nhiều quyền lực thương lượng. Không bang nào muốn một bang có quyền lực trên họ. Do đó, đã có sự cẩn trọng để tạo ra một cơ chế trong Hiến pháp nhằm bảo vệ khỏi việc một bang nắm quyền lực như vậy. Kenneth Prewitt và Sidney Verba, trong cuốn sách An Introduction to American Government (Một Giới thiệu về Chính quyền Mỹ), chỉ ra rằng Hiến pháp phản ánh một quan điểm triết học. Họ trích dẫn một câu nói của John Adams.

Những ham muốn, đam mê, định kiến và tự ái của con người không bao giờ bị chinh phục bởi tình yêu và tri thức, và… bạn nói rằng “tình yêu tự do được gắn chặt trong tâm hồn con người”. Vậy thì nó cũng có trong tâm hồn của một con sói. Tôi nghi ngờ rằng một người có lý trí, sự khoan dung và tính xã hội hơn người khác. …Do đó, chúng ta không nên chỉ dựa vào tình yêu tự do trong tâm hồn của con người. Một hệ thống chính trị nào đó phải được chuẩn bị để giúp tình yêu tự do chống lại kẻ thù của nó.

Giải thích của Plevite và Wolbach là nếu không có những giới hạn mang tính chính trị, con người ta không thể tin tưởng. Do đó, Hiến pháp phản ánh một quan điểm bi quan về bản chất con người, chứ không phải là một quan điểm lạc quan. Đây là sự khác biệt lớn giữa văn hóa phương Tây và phương Đông. Có lẽ điều này có thể giải thích sự khác biệt trong sự phát triển chính trị giữa phương Đông và phương Tây theo một cách nào đó.

Với những ý tưởng này trong tâm trí, Hiến pháp thiết lập ba nguyên tắc cơ bản sau đây.

  1. Giới thiệu chính phủ đại diện, bao gồm việc bãi bỏ các tước hiệu quý tộc và việc phân cấp các vị trí quan chức, với các cuộc bầu cử định kỳ và chính trị đại diện.
  2. Chính quyền phân cấp (phân cấp bao gồm cả khía cạnh dọc và ngang, với khía cạnh dọc đề cập đến chế độ liên bang, trong đó các tiểu bang giữ quyền lực lớn hơn. Đây là lựa chọn duy nhất khả thi vào thời điểm đó. Khía cạnh ngang đề cập đến điều thường được gọi là “phân chia quyền lực”).
  3. Chính phủ hạn chế, tức là những gì chính phủ không thể làm, chẳng hạn như không can thiệp vào quyền tự do tôn giáo, tự do ngôn luận, tự do viết lách, tự do hội họp, v.v. Nó cũng thiết lập nguyên tắc “Chính phủ của pháp luật, không phải của con người” và, kết quả của nguyên tắc này, Hiến pháp thiết lập hệ thống tòa án.

Không thể nghĩ rằng những người soạn thảo Hiến pháp chỉ quan tâm đến những tầng lớp lao động vất vả và soạn thảo Hiến pháp cho họ. Những gì họ quan tâm vào thời điểm đó trước tiên là duy trì lợi ích của họ, một nhóm cầm quyền mới. Việc phổ biến tinh thần của Hiến pháp là một quá trình kéo dài. Đến tận những năm 1960, người Mỹ gốc Phi vẫn còn đấu tranh cho quyền lợi của họ. Cho đến ngày nay, người Mỹ gốc Phi vẫn còn đấu tranh, mặc dù không phải lúc nào cũng là đấu tranh đẫm máu.

Một câu hỏi đã thu hút sự chú ý toàn cầu là tại sao Hiến pháp Hoa Kỳ đã tồn tại suốt hai trăm năm trong khi các quốc gia khác không có một thành tích như vậy. Prewitt và Wolbach đưa ra một lời giải thích: (1) Hiến pháp là một tài liệu chính trị, và những xung đột chính trị tồn tại vào năm 1780 vẫn còn tồn tại đến ngày nay, nhưng dưới những hình thức khác, chẳng hạn như mối quan hệ trung ương – địa phương; (2) chính phủ đại diện, phân cấp và hạn chế quyền lực mà Hiến pháp bảo đảm đã có sức hấp dẫn mạnh mẽ vào thời điểm đó và vẫn giữ nguyên sức hút đến ngày nay.

Một lý do quan trọng nữa là những thay đổi của chính Hiến pháp. Nếu Hiến pháp không thay đổi trong suốt hai trăm năm qua, thật khó để tưởng tượng rằng nó sẽ tồn tại đến ngày nay. Những thay đổi trong Hiến pháp đặc trưng bởi sự thay đổi về nội dung nhưng không thay đổi về hình thức. Hiến pháp đã thay đổi theo nhiều cách, chẳng hạn như tính phổ quát của các điều khoản, cách giải thích mới về Hiến pháp của Tòa án Tối cao, các quyền không được liệt kê trong Hiến pháp và các sửa đổi đối với Hiến pháp. Điều quan trọng là cơ sở và thủ tục để thay đổi Hiến pháp vẫn là chính Hiến pháp này, không có gì khác. Không có điều gì là bất biến trong thế giới này. Người Mỹ ngày nay đã từ lâu giải thích Hiến pháp theo cách rất khác so với hai trăm năm trước, nhưng mọi người thường muốn nói rằng đó là những gì đã có từ hai trăm năm trước. Bởi vì không dễ để thu hút sự chú ý đến những gì người ta nói hôm nay; đôi khi dễ dàng hơn, thậm chí dễ dàng hơn nhiều, để thu hút sự chú ý đến những gì người xưa đã nói.

Vấn đề then chốt là không ai thực sự có quyền thay đổi hiến pháp này, và việc duy trì và giải thích nó là cách duy nhất để tiến về phía trước. Có lẽ đây là một quy tắc chung rằng nếu vẫn còn quyền thay đổi hiến pháp và hệ thống chính trị, thì xã hội chưa đạt được trạng thái ổn định về mặt chính trị và xã hội trong quản trị.


Đăng ngày

trong

Thẻ: