Giới thiệu.
Trong Luận cương Liên bang số 81, Alexander Hamilton phân tích sự phân chia quyền tư pháp giữa Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới trong hệ thống pháp lý của Hoa Kỳ. Tác giả bảo vệ quan điểm rằng việc Tòa án Tối cao phải độc lập với cơ quan lập pháp là cần thiết để bảo vệ công lý và ngăn chặn sự can thiệp chính trị. Bài viết phản bác những lo ngại cho rằng việc trao quyền phán quyết cuối cùng cho Tòa án Tối cao có thể dẫn đến lạm dụng quyền lực, đồng thời nhấn mạnh rằng quyền lực này luôn có sự kiểm soát thông qua cơ chế trách nhiệm đối với các thẩm phán. Ngoài ra, tác giả cũng thảo luận về sự cần thiết của việc thành lập các tòa án cấp dưới để giảm tải cho Tòa án Tối cao và đảm bảo hiệu quả xét xử, đồng thời làm rõ vai trò của Tòa án Tối cao trong việc phúc thẩm các vụ án mà không xâm phạm quyền xét xử của các bồi thẩm đoàn.
Những điểm chính của bài có thể được tóm tắt để tiện theo dõi như sau:
1. Phân chia quyền tư pháp:
Hiến pháp Hoa Kỳ quy định quyền tư pháp thuộc về Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới mà Quốc hội có thể thành lập.
Tòa án Tối cao là cơ quan có quyền phán quyết cuối cùng và không thể bị thay đổi bởi cơ quan lập pháp, điều này có thể gây ra sự lo ngại về việc tòa án này có quyền giải thích các đạo luật theo ý mình.
Sự độc lập của Tòa án Tối cao được ủng hộ vì việc để cơ quan lập pháp quyết định cuối cùng có thể dẫn đến xung đột lợi ích và thiếu công bằng.
2. Lập luận phản đối và bảo vệ:
Một số ý kiến cho rằng việc Tòa án Tối cao độc lập sẽ tạo ra sự lạm dụng quyền lực, trong khi các cơ quan lập pháp có thể sửa chữa các phán quyết sai lầm của tòa án. Tuy nhiên, sự kiểm soát đối với các thẩm phán qua việc luận tội và việc tòa án bị giới hạn trong các phán quyết của mình giúp giảm thiểu sự lạm dụng này.
Sự độc lập của Tòa án Tối cao giúp đảm bảo công lý, vì các thẩm phán có kinh nghiệm chuyên môn và không bị ảnh hưởng bởi chính trị đảng phái.
3. Vai trò của các tòa án cấp dưới:
Việc thành lập các tòa án cấp dưới giúp tránh việc phải kiện lên Tòa án Tối cao cho mọi vấn đề liên quan đến quyền tài phán của Liên bang.
Tòa án cấp bang không phù hợp để xử lý các vấn đề quốc gia vì thiếu tính độc lập và có thể bị ảnh hưởng bởi tinh thần địa phương.
Do đó, việc thành lập các tòa án liên bang ở từng khu vực (thay vì ở mỗi bang) sẽ hiệu quả hơn trong việc xử lý công lý nhanh chóng và hiệu quả.
4. Phân chia thẩm quyền giữa các tòa án:
Tòa án Tối cao sẽ có thẩm quyền xét xử trực tiếp trong các vụ án liên quan đến đại sứ, công chức ngoại giao, lãnh sự và các vụ án có sự tham gia của một bang.
Các vụ án khác sẽ thuộc thẩm quyền các tòa án cấp dưới, và Tòa án Tối cao chỉ có quyền phúc thẩm.
Thẩm quyền phúc thẩm của Tòa án Tối cao sẽ bao gồm cả các vấn đề về pháp lý và sự kiện, nhưng có thể bị điều chỉnh theo quy định của Quốc hội.
5. Khả năng sửa chữa sai lầm và hệ thống phúc thẩm:
Các tòa án cấp dưới có thể bị kháng cáo lên Tòa án Tối cao để kiểm tra lại các phán quyết liên quan đến sự kiện và pháp lý.
Quyền phúc thẩm này không làm mất đi quyền xét xử bồi thẩm đoàn và sẽ được điều chỉnh để đảm bảo công lý mà không gây bất tiện cho hệ thống.
Bản dịch:
Từ Bản In McLEAN, New York.
Tác giả: Alexander Hamilton
Kính Gửi Nhân Dân Bang New York:
Chúng ta hãy xem xét cách phân chia quyền tư pháp giữa các tòa án khác nhau và mối quan hệ giữa chúng. Hiến pháp quy định quyền tư pháp của Hoa Kỳ thuộc về một Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới do Quốc hội có thể thiết lập theo thời gian.
Việc cần có một tòa án tối cao với quyền phán quyết cuối cùng là điều ít ai tranh cãi. Lý do đã được giải thích trước đây và quá rõ ràng để lặp lại. Câu hỏi duy nhất là liệu tòa án này nên độc lập hay là một phần của cơ quan lập pháp. Một số người phản đối Thượng viện làm tòa án luận tội vì cho rằng điều này trộn lẫn quyền lực không phù hợp, nhưng lại ủng hộ việc để cơ quan lập pháp quyết định cuối cùng trong mọi vụ việc, điều này mâu thuẫn với lập luận của họ.
Các lập luận, hay chính xác hơn là những đề xuất, trên cơ sở cáo buộc này có nội dung như sau: “Quyền lực của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ được đề xuất, vốn sẽ là một cơ quan độc lập và riêng biệt, sẽ vượt trội hơn quyền lực của cơ quan lập pháp. Quyền giải thích các đạo luật theo tinh thần của Hiến pháp sẽ cho phép tòa án này định hình chúng theo bất kỳ cách nào mà nó cho là thích hợp; đặc biệt là vì các quyết định của nó sẽ không bị cơ quan lập pháp sửa đổi. Điều này vừa chưa từng có tiền lệ vừa nguy hiểm. Ở Anh, quyền tư pháp cuối cùng thuộc về Thượng viện, là một nhánh của cơ quan lập pháp; và phần này của chính phủ Anh đã được bắt chước trong các hiến pháp của các tiểu bang. Quốc hội Anh và các cơ quan lập pháp của các tiểu bang có thể bất kỳ lúc nào sửa chữa những quyết định đáng ngờ của các tòa án tương ứng của họ bằng cách ban hành luật. Nhưng những sai lầm và sự lạm dụng quyền lực của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ sẽ không thể bị kiểm soát hay sửa chữa.” Khi xem xét kỹ lưỡng, lập luận này sẽ được chứng minh là dựa trên lý lẽ sai lầm và sự hiểu nhầm về các sự kiện.
Trước hết, trong kế hoạch đang được xem xét không có một từ nào trực tiếp trao quyền cho các tòa án quốc gia giải thích các đạo luật theo tinh thần của Hiến pháp, hay cho phép các tòa án này có quyền tự do lớn hơn trong việc này so với các tòa án của các tiểu bang. Tuy nhiên, tôi đồng ý rằng Hiến pháp nên là tiêu chuẩn để giải thích các đạo luật, và khi có sự mâu thuẫn rõ ràng, các đạo luật nên nhường chỗ cho Hiến pháp. Nhưng học thuyết này không phải là kết quả từ bất kỳ yếu tố nào đặc biệt trong kế hoạch của hội nghị, mà là từ lý thuyết chung về một Hiến pháp có giới hạn; và trong phạm vi đúng đắn, nó cũng áp dụng cho hầu hết, nếu không muốn nói là tất cả, các chính phủ tiểu bang. Do đó, không có lý do hợp lý nào để phản đối hệ thống tư pháp liên bang về điểm này mà không áp dụng tương tự đối với các tòa án địa phương nói chung, hay để lên án mọi hiến pháp cố gắng đặt ra giới hạn đối với quyền lực của cơ quan lập pháp.
Tuy nhiên, có thể sự phản đối chủ yếu nằm ở cách tổ chức Tòa án Tối cao, khi tòa án này bao gồm một nhóm thẩm phán riêng biệt, thay vì là một nhánh của cơ quan lập pháp, như trong hệ thống của Vương quốc Anh hay của các tiểu bang. Để nhấn mạnh điểm này, những người phản đối sẽ phải từ bỏ ý nghĩa mà họ đã gán cho nguyên lý nổi tiếng về sự phân chia quyền lực. Tuy nhiên, tôi vẫn đồng ý với họ, theo giải thích đã đưa ra trước đó, rằng nguyên lý phân chia này không bị vi phạm nếu quyền quyết định cuối cùng được trao cho một phần của cơ quan lập pháp. Nhưng dù đây không phải là sự vi phạm hoàn toàn đối với nguyên lý quan trọng đó, nó vẫn gần như vi phạm và vì lý do này, ít được ưu tiên hơn so với kế hoạch mà hội nghị đề xuất.
Chúng ta hiếm khi có thể mong đợi một nhóm người đã tham gia vào việc ban hành các đạo luật xấu, lại có thể công bằng khi áp dụng những đạo luật đó. Tinh thần đã khiến họ tạo ra các đạo luật này sẽ dễ dàng ảnh hưởng đến cách họ giải thích chúng. Cũng không thể kỳ vọng rằng những người đã vi phạm Hiến pháp khi hành động với tư cách là nhà lập pháp sẽ có xu hướng sửa chữa sai lầm đó khi họ đóng vai trò thẩm phán. Và đó chưa phải là tất cả. Mọi lý do ủng hộ việc các thẩm phán giữ chức vụ lâu dài dựa trên hành vi tốt đều chống lại việc giao quyền xét xử cuối cùng cho một nhóm người chỉ được chọn trong một thời gian hạn chế. Việc giao phó quyết định các vụ án, đầu tiên cho những thẩm phán có vị trí vĩnh viễn, và sau đó là để các quyết định đó bị xét lại bởi những người chỉ giữ chức vụ tạm thời, là điều vô lý. Thậm chí còn vô lý hơn khi để các quyết định của những người có chuyên môn, đã học luật lâu dài, bị xét lại bởi những người thiếu kiến thức tương tự. Các thành viên của cơ quan lập pháp hiếm khi được chọn vì trình độ phù hợp với vị trí thẩm phán, và vì lý do này, chúng ta có lý do chính đáng để lo ngại về những hậu quả xấu từ việc lựa chọn những người thiếu kiến thức về pháp luật. Hơn nữa, vì các cơ quan lập pháp thường bị chia rẽ theo đảng phái, chúng ta cũng có lý do để lo ngại rằng các thế lực chính trị có thể ảnh hưởng đến công lý. Thói quen chia rẽ thành các phe đối lập sẽ làm cho việc bảo vệ công lý và công bằng trở nên khó khăn hơn.
Những yếu tố này dạy chúng ta phải khen ngợi sự sáng suốt của các bang đã giao quyền tư pháp cuối cùng, không cho một phần của cơ quan lập pháp, mà cho những cơ quan độc lập và tách biệt. Trái ngược với giả định của những người cho rằng kế hoạch của hội nghị trong vấn đề này là mới mẻ và chưa từng có, thực tế nó chỉ là bản sao của các bản hiến pháp của các bang như New Hampshire, Massachusetts, Pennsylvania, Delaware, Maryland, Virginia, North Carolina, South Carolina và Georgia. Việc lựa chọn những mô hình này đáng được khen ngợi hết sức.
Cũng sai lầm khi cho rằng Quốc hội Anh hoặc cơ quan lập pháp bang có thể dễ dàng sửa chữa phán quyết tòa án. Không chính phủ nào —Anh, bang, hay liên bang — cho phép cơ quan lập pháp đảo ngược một phán quyết cụ thể. Họ chỉ có thể ban hành luật mới cho các vụ việc tương lai. Nguyên tắc này áp dụng như nhau cho mọi chính phủ, nên không có sự khác biệt giữa hệ thống liên bang và bang.
Cuối cùng, có thể nhận thấy rằng mối lo ngại về việc quyền tư pháp xâm phạm quyền lực lập pháp, điều đã được lặp lại nhiều lần, thực chất là không có cơ sở. Mặc dù đôi khi có thể xảy ra sự hiểu lầm hoặc việc áp dụng sai ý chí của cơ quan lập pháp, nhưng những điều này sẽ không bao giờ đủ lớn để gây ra vấn đề thực sự hoặc làm tổn hại đến hệ thống chính trị. Điều này có thể được khẳng định chắc chắn từ bản chất của quyền tư pháp, các vấn đề mà quyền này liên quan đến, cách thức quyền này được thực hiện, sự yếu thế tương đối của nó, và việc hoàn toàn không có khả năng tự thực thi các hành động của mình bằng vũ lực. Kết luận này càng được củng cố mạnh mẽ bởi sự kiểm soát quan trọng từ quyền lực truy tố các thẩm phán, được nắm giữ bởi một phần của cơ quan lập pháp và quyết định bởi phần còn lại. Đây là một sự bảo vệ hoàn toàn. Các thẩm phán sẽ không bao giờ có thể liên tiếp xâm phạm quyền lực của cơ quan lập pháp mà không phải đối mặt với phản ứng mạnh mẽ từ cơ quan này, cơ quan có quyền loại bỏ họ khỏi chức vụ nếu cần thiết. Điều này không chỉ làm giảm mọi lo ngại về vấn đề này mà còn cung cấp một lý lẽ mạnh mẽ cho việc cấu trúc Thượng viện thành tòa án xét xử các vụ án luận tội.
Sau khi đã xem xét và giải quyết những phản đối về việc tổ chức độc lập và riêng biệt của Tòa án Tối cao, tôi tiếp tục xem xét tính hợp lý của quyền lực thành lập các tòa án cấp dưới, và mối quan hệ giữa những tòa án này và Tòa án Tối cao.
Quyền thành lập các tòa án cấp dưới rõ ràng được thiết kế để tránh sự cần thiết phải kiện lên Tòa án Tối cao trong mọi vụ án liên quan đến quyền tài phán liên bang. Nó nhằm mục đích cho phép chính phủ quốc gia thành lập hoặc ủy quyền, tại mỗi bang hoặc khu vực của Hoa Kỳ, một tòa án có thẩm quyền giải quyết các vấn đề thuộc quyền tài phán quốc gia trong phạm vi của nó.
Câu hỏi được đặt ra là: tại sao không sử dụng các tòa án cấp bang để thực hiện mục đích này? Có nhiều lý do. Mặc dù các tòa án cấp bang có năng lực và thẩm quyền, nhưng quyền lực trong vấn đề này vẫn là một phần quan trọng trong kế hoạch. Quyền lực này cần thiết để cơ quan lập pháp quốc gia có thể giao cho các tòa án này thẩm quyền xử lý các vụ án liên quan đến Hiến pháp quốc gia. Việc trao quyền quyết định các vụ án như vậy cho các tòa án hiện có của các bang có thể sẽ giống như “tạo lập các tòa án,” như việc thành lập các tòa án mới với quyền lực tương tự. Tuy nhiên, liệu không nên có một quy định rõ ràng và trực tiếp hơn về việc ủng hộ các tòa án cấp bang?
Theo tôi, có những lý do vững chắc chống lại việc này: không ai có thể dự đoán được mức độ ảnh hưởng của tinh thần địa phương, điều có thể khiến các tòa án bang không đủ khả năng xử lý các vấn đề quốc gia; trong khi đó, ai cũng có thể nhận thấy rằng các tòa án ở một số bang sẽ không phải là kênh phù hợp để thực thi quyền lực tư pháp của Liên minh.
Các thẩm phán bang, được bổ nhiệm theo quyết định của thống đốc hoặc theo nhiệm kỳ ngắn, sẽ không đủ độc lập để đảm bảo việc thi hành nghiêm ngặt các đạo luật quốc gia. Và nếu cần thiết phải giao cho họ thẩm quyền xét xử các vụ án phát sinh từ các đạo luật này, thì cũng cần phải có một hệ thống kháng cáo rộng mở. Mức độ tin tưởng vào các tòa án cấp dưới sẽ quyết định mức độ dễ dàng hay khó khăn của việc kháng cáo. Tôi tin rằng hệ thống phúc thẩm là phù hợp với các loại vụ án mà nó bao gồm trong kế hoạch. Tuy nhiên, tôi cho rằng bất kỳ điều gì làm cho việc kháng cáo trở nên quá dễ dàng sẽ gây ra những vấn đề cho cả công chúng và cá nhân.
Tôi không hoàn toàn chắc chắn, nhưng tôi nghĩ rằng việc chia Liên bang Hoa Kỳ thành bốn, năm hoặc sáu khu vực và thành lập một tòa án liên bang tại mỗi khu vực, thay vì ở mỗi bang, sẽ rất hợp lý và có ích. Các thẩm phán của những tòa án này, với sự trợ giúp của các thẩm phán bang, có thể tổ chức các phiên tòa tại các khu vực khác nhau trong các khu vực của mình. Qua đó, công lý có thể được thực thi một cách nhanh chóng và hiệu quả, và quyền kháng cáo có thể được giới hạn trong phạm vi hẹp. Kế hoạch này hiện tại có vẻ là sự lựa chọn tốt nhất trong tất cả những gì có thể thực hiện, và để thực hiện được nó, cần thiết phải có quyền thành lập các tòa án cấp dưới, như được đề xuất trong Hiến pháp dự thảo.
Những lý do này có vẻ đủ để thuyết phục một người khách quan rằng việc thiếu quyền lực này sẽ là một thiếu sót lớn trong kế hoạch. Bây giờ, chúng ta hãy xem xét cách thức quyền lực tư pháp sẽ được phân chia giữa Tòa án Tối cao và các tòa án cấp dưới của Liên minh. Tòa án Tối cao sẽ có thẩm quyền xét xử trực tiếp chỉ trong một số trường hợp: những vụ án liên quan đến các đại sứ, các công chức ngoại giao khác, các lãnh sự, và các vụ án trong đó một bang là bên tham gia. Các công chức ngoại giao là đại diện trực tiếp của các quốc gia của họ, và mọi vấn đề liên quan đến họ đều có sự gắn kết chặt chẽ với hòa bình quốc gia. Vì lý do này, việc các vụ án như vậy được đưa ngay lên tòa án cao nhất của quốc gia là hợp lý và cần thiết. Mặc dù các lãnh sự không có vai trò ngoại giao chính thức như các đại sứ, nhưng vì họ là đại diện công khai của các quốc gia mà họ thuộc về, nên lý do này cũng có thể áp dụng cho họ trong một mức độ lớn. Trong trường hợp một bang tham gia một vụ án, sẽ không phù hợp với phẩm giá của bang đó nếu vụ án đó được chuyển sang một tòa án cấp dưới. Dù vấn đề này có thể không hoàn toàn liên quan trực tiếp đến chủ đề của bài viết này, nhưng tôi sẽ đề cập đến một giả thuyết đã gây ra một số lo ngại không đúng lý do. Có người đã gợi ý rằng nếu các chứng khoán công của một bang được chuyển nhượng cho công dân của một bang khác, họ có thể kiện bang đó tại các tòa án liên bang về số tiền của các chứng khoán đó; một giả thuyết mà những lý lẽ sau đây sẽ chứng minh là không có cơ sở.
Điều này là bản chất của chủ quyền: một quốc gia không thể bị kiện bởi cá nhân nếu không có sự đồng ý của chính nó. Đây là nguyên tắc chung và thực tiễn phổ biến của nhân loại, và quyền miễn trừ này, như một thuộc tính của chủ quyền, hiện nay được mọi chính phủ bang trong Liên minh hưởng thụ. Do đó, trừ khi kế hoạch của hội nghị loại bỏ quyền miễn trừ này, nó sẽ vẫn thuộc về các bang, và những lo ngại đã nêu chỉ là lý thuyết, không phải mối đe dọa thực sự. Các điều kiện cần thiết để hạn chế chủ quyền của các bang đã được thảo luận khi xét đến điều khoản về thuế, và không cần phải lặp lại ở đây. Nếu quay lại những nguyên tắc đã được thiết lập trong phần đó, chúng ta có thể hoàn toàn tin tưởng rằng các chính phủ bang sẽ không bị tước bỏ quyền tự quyết trong việc thanh toán các khoản nợ của mình theo cách riêng, miễn là họ tuân thủ nghĩa vụ trung thực. Các hợp đồng giữa một quốc gia và các cá nhân chỉ có tính ràng buộc về mặt lương tâm đối với chủ quyền quốc gia, và không có quyền lực cưỡng chế nào đối với các chính phủ. Những hợp đồng này không trao cho cá nhân quyền kiện chính quyền. Vậy mục đích gì trong việc cho phép kiện các bang vì các khoản nợ của họ? Làm sao có thể thực thi được các phán quyết? Rõ ràng, điều này không thể thực hiện được mà không gây chiến với bang đó; và việc ngầm trao cho các tòa án liên bang quyền lực có thể dẫn đến hậu quả như vậy, nó sẽ hoàn toàn là sự gượng ép và không thể biện minh.
Chúng ta hãy tiếp tục với các quan sát của mình. Chúng ta đã thấy rằng thẩm quyền xét xử gốc của Tòa án Tối cao sẽ chỉ giới hạn trong hai loại vụ án, và những vụ án này hiếm khi xảy ra. Trong tất cả các vụ án liên bang khác, thẩm quyền xét xử gốc sẽ thuộc về các tòa án cấp dưới, và Tòa án Tối cao chỉ có thẩm quyền phúc thẩm, “với những NGOẠI LỆ và các QUY ĐỊNH mà Quốc hội sẽ đưa ra.”
Tính hợp lý của thẩm quyền phúc thẩm gần như chưa từng bị nghi ngờ đối với các vấn đề về pháp lý, nhưng lại có nhiều phản đối khi quyền này được áp dụng vào các vấn đề sự kiện. Một số người có thiện chí ở bang này, khi dựa vào ngôn ngữ và thủ tục trong các tòa án của chúng ta, đã hiểu sai rằng quyền này sẽ thay thế việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn, thay vào đó là hệ thống xét xử theo luật dân sự (civil law), vốn đang được áp dụng trong các tòa án hàng hải, di sản và công lý.
Thuật ngữ “phúc thẩm” đã được hiểu theo một nghĩa kỹ thuật, thường liên quan đến các vụ kháng cáo trong hệ thống pháp luật dân sự. Tuy nhiên, nếu tôi không bị hiểu lầm, cùng một nghĩa đó sẽ không được áp dụng ở bất kỳ khu vực nào ở New England. Tại đó, việc kháng cáo từ một bồi thẩm đoàn sang một bồi thẩm đoàn khác là điều quen thuộc cả về mặt ngôn ngữ và thực tiễn, và thậm chí trở thành một việc đương nhiên cho đến khi có hai bản án giống nhau. Vì vậy, thuật ngữ “phúc thẩm” sẽ không được hiểu theo cùng một nghĩa ở New England như ở New York, điều này chứng tỏ sự không hợp lý khi áp dụng một cách hiểu kỹ thuật dựa trên pháp lý của bất kỳ bang nào.
Cụm từ này, khi được hiểu một cách tổng quát, chỉ đơn giản ám chỉ quyền của một tòa án trong việc xem xét lại quyết định của một tòa án khác, dù là về pháp lý, sự kiện hay cả hai. Phương thức thực hiện điều này có thể phụ thuộc vào phong tục cổ xưa hoặc quy định lập pháp (với một chính phủ mới, nó sẽ phụ thuộc vào quy định lập pháp), và có thể có hoặc không có sự tham gia của bồi thẩm đoàn, tùy theo đánh giá có phù hợp hay không. Do đó, nếu Hiến pháp được đề xuất cho phép việc xem xét lại một sự kiện đã được quyết định bởi bồi thẩm đoàn, việc này có thể được quy định sao cho việc xem xét lại đó có thể thực hiện bởi một bồi thẩm đoàn thứ hai, có thể bằng cách trả lại vụ án cho tòa án cấp dưới để xét xử lại sự kiện, hoặc chỉ đạo đưa vấn đề trực tiếp từ Tòa án Tối cao.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là việc xem xét lại một sự kiện đã được xác định bởi bồi thẩm đoàn sẽ được phép tại Tòa án Tối cao. Tại sao không thể nói một cách chính xác rằng khi một bản án được kháng cáo từ tòa án cấp dưới lên tòa án cấp cao hơn trong bang này, tòa án cấp cao có quyền xét xử cả về pháp lý và sự kiện?
Mặc dù tòa án cấp cao không thể tiến hành một cuộc điều tra mới về sự kiện, nhưng tòa án vẫn xem xét sự kiện đó như nó được ghi nhận trong hồ sơ và đưa ra phán quyết về pháp luật liên quan. Đây là quyền xét xử cả về sự kiện và pháp lý; và không thể tách rời chúng. Mặc dù các tòa án theo thông luật ở bang này xác định các sự kiện tranh chấp thông qua bồi thẩm đoàn, nhưng chúng rõ ràng có quyền xét xử cả về sự kiện và pháp lý. Do đó, khi các sự kiện đã được thỏa thuận trong các lập luận, họ không cần đến bồi thẩm đoàn nữa mà có thể đi thẳng đến phán quyết. Vì vậy, tôi lập luận rằng khi nói đến “thẩm quyền phúc thẩm cả về pháp lý và sự kiện,” điều này không nhất thiết ám chỉ rằng Tòa án Tối cao sẽ xem xét lại các sự kiện đã được bồi thẩm đoàn quyết định tại các tòa án cấp dưới.
Những ý tưởng sau đây có thể đã ảnh hưởng đến hội nghị khi đưa ra quy định này. Thẩm quyền phúc thẩm của Tòa án Tối cao (có thể đã được lập luận) sẽ áp dụng đối với các vụ án được xét xử theo những phương thức khác nhau: một số vụ án theo thông luật (common law), và một số vụ án theo dân luật (civil law). Trong trường hợp đầu tiên, việc xem xét lại pháp luật nhìn chung sẽ là phạm vi thẩm quyền thích hợp của Tòa án Tối cao; còn trong trường hợp sau, việc xem xét lại các sự kiện là phù hợp với thông lệ, và trong một số trường hợp, như các vụ án về hàng hải, có thể là cần thiết để duy trì hòa bình công cộng. Do đó, cần thiết phải mở rộng thẩm quyền phúc thẩm, trong một số trường hợp, để bao gồm cả vấn đề sự kiện. Việc đưa ra một ngoại lệ rõ ràng đối với các vụ án đã được xét xử ban đầu bởi bồi thẩm đoàn sẽ không hợp lý, bởi vì ở một số bang, tất cả các vụ án đều được xét xử theo hình thức này; và một ngoại lệ như vậy sẽ ngăn cản việc xem xét lại các sự kiện, cả trong những trường hợp việc này là cần thiết, lẫn trong những trường hợp việc này là không phù hợp. Để tránh những bất tiện, an toàn hơn cả là quy định một cách tổng quát rằng Tòa án Tối cao sẽ có thẩm quyền phúc thẩm đối với cả vấn đề pháp lý và sự kiện, và thẩm quyền này sẽ chịu sự điều chỉnh bởi những ngoại lệ và quy định do cơ quan lập pháp quốc gia đặt ra. Điều này sẽ cho phép chính phủ điều chỉnh thẩm quyền phúc thẩm sao cho phù hợp nhất với mục tiêu công lý và an ninh công cộng.
Quan điểm này rõ ràng khẳng định rằng ý tưởng về việc bãi bỏ xét xử bởi bồi thẩm đoàn thông qua quy định này là sai lầm và không đúng. Cơ quan lập pháp Hoa Kỳ chắc chắn có đầy đủ quyền hạn để quy định rằng trong các vụ án kháng cáo lên Tòa án Tối cao, sẽ không có việc xem xét lại các sự kiện nếu chúng đã được xét xử bởi bồi thẩm đoàn trong phiên tòa ban đầu. Đây sẽ là một ngoại lệ hợp pháp; tuy nhiên, nếu ngoại lệ này bị cho là quá rộng, nó có thể được hạn chế chỉ áp dụng đối với những vụ án được quyết định theo thông luật và theo hình thức xét xử bằng bồi thẩm đoàn.
Tóm lại, các quan sát về quyền hạn của ngành tư pháp cho đến nay có thể được nêu ra như sau: Quyền hạn này đã được giới hạn cẩn thận đối với những vụ án rõ ràng phù hợp với thẩm quyền của ngành tư pháp quốc gia; trong việc phân chia quyền hạn này, chỉ một phần rất nhỏ quyền xét xử ban đầu được giữ lại cho Tòa án Tối cao, phần còn lại được chuyển giao cho các tòa án cấp dưới; Tòa án Tối cao sẽ có thẩm quyền phúc thẩm, cả về pháp lý và sự kiện, trong tất cả các vụ án được chuyển đến, nhưng quyền phúc thẩm này sẽ chịu sự ngoại lệ và quy định mà có thể được xem là thích hợp; quyền phúc thẩm này không làm mất đi quyền xét xử bằng bồi thẩm đoàn; và nếu các cơ quan quốc gia hành động một cách khôn ngoan và liêm chính, hệ thống tư pháp mới sẽ mang lại những lợi ích vững chắc mà không gây ra những bất tiện như đã được dự đoán.
Publius
Nguyễn Huy Vũ dịch và giới thiệu.