Luận cương Liên bang số 79: Tiếp tục với nhánh tư pháp 

Giới thiệu.

Trong Luận cương Liên bang số 79, Alexander Hamilton nhấn mạnh tầm quan trọng của lương bổng cố định và nhiệm kỳ trọn đời để đảm bảo tính độc lập của thẩm phán liên bang. Hiến pháp quy định lương thẩm phán không được giảm trong thời gian tại nhiệm, cho phép điều chỉnh linh hoạt để bảo vệ họ khỏi áp lực tài chính; không giống lương Tổng thống, vốn cố định trong bốn năm, lương thẩm phán có thể tăng để phù hợp với hoàn cảnh. Trách nhiệm giải trình đối với các thẩm phán được đảm bảo qua luận tội và xét xử bởi lưỡng viện của quốc hội — điều này giúp tạo ra sự cân bằng giữa tính độc lập và trách nhiệm. Hamilton bác bỏ ý kiến về việc loại bỏ thẩm phán vì mất khả năng, đặc biệt chỉ trích quy định giới hạn tuổi 60 đối với các thẩm phán của bang New York, cho rằng nó không công bằng và không cần thiết, vì năng lực trí tuệ thường duy trì tốt ở các thẩm phán kỳ cựu.

Bản dịch:

Từ Bản In McLEAN, New York.

Tác giả: Alexander Hamilton.

Kính Gửi Nhân Dân Bang New York:

Bên cạnh nhiệm kỳ trọn đời, không gì đảm bảo tính độc lập của thẩm phán hơn việc bảo đảm lương bổng ổn định cho họ. Nhận định này, đã được đề cập liên quan đến Tổng thống, cũng áp dụng tương tự ở đây. Trong bản chất tự nhiên của con người, quyền kiểm soát nguồn sống của một cá nhân đồng nghĩa với quyền kiểm soát ý chí của họ. Các thẩm phán không thể hoàn toàn độc lập với nhánh lập pháp nếu họ phụ thuộc vào những khoản cấp ngân sách không thường xuyên từ nhánh này. Những người ủng hộ chính quyền tốt ở mọi bang đã bày tỏ sự tiếc nuối về việc thiếu các biện pháp bảo vệ rõ ràng và cụ thể trong hiến pháp các bang liên quan đến vấn đề này. Một số bang đã quy định rằng lương của thẩm phán phải cố định, nhưng thực tế cho thấy các quy định mơ hồ như vậy không đủ để ngăn chặn sự lách luật của cơ quan lập pháp. Do đó, cần một quy định rõ ràng và mạnh mẽ hơn. Hiến pháp Hoa Kỳ quy định rằng các thẩm phán liên bang “sẽ nhận được, tại các thời điểm cố định, một khoản thù lao cho công việc của họ, và khoản thù lao này không được giảm trong suốt thời gian họ tại nhiệm.”

Xét mọi khía cạnh, đây là quy định tối ưu nhất có thể xây dựng. Rõ ràng, việc quy định một mức lương cố định trong Hiến pháp là không khả thi do giá trị tiền tệ và nhu cầu xã hội thay đổi theo thời gian. Một mức lương hào phóng hôm nay có thể trở nên quá thấp sau năm mươi năm. Vì vậy, cần để cơ quan lập pháp có quyền điều chỉnh lương phù hợp với hoàn cảnh, nhưng với các giới hạn để ngăn họ làm xấu đi tình trạng tài chính của thẩm phán. Quy định này đảm bảo thẩm phán yên tâm về tình trạng tài chính của mình và không bị cản trở trong việc thực thi nhiệm vụ vì lo sợ bị đặt vào tình thế bất lợi. Không giống như Tổng thống, người có mức lương không thể thay đổi trong nhiệm kỳ bốn năm, lương của thẩm phán có thể được tăng nhưng không được giảm. Sự khác biệt này xuất phát từ thời hạn nhiệm kỳ: Tổng thống phục vụ thời gian ngắn, nên mức lương ban đầu thường vẫn phù hợp đến cuối nhiệm kỳ; trong khi đó, các thẩm phán, nếu hành xử đúng mực, phục vụ trọn đời, thì mức lương khi họ được bổ nhiệm lần đầu sẽ có thể trở nên không đủ khi họ tiếp tục công tác.

Quy định về lương bổng này thể hiện sự thận trọng và hiệu quả, và có thể khẳng định rằng, cùng với nhiệm kỳ trọn đời, nó tạo ra triển vọng tốt hơn về tính độc lập của thẩm phán so với bất kỳ hiến pháp bang nào liên quan đến thẩm phán của họ.

Các biện pháp bảo đảm trách nhiệm của thẩm phán được quy định trong điều khoản về luận tội. Hạ viện có thể luận tội họ vì hành vi sai trái, và Thượng viện sẽ xét xử. Nếu bị kết tội, họ có thể bị bãi nhiệm và bị cấm giữ bất kỳ chức vụ nào khác. Đây là biện pháp duy nhất phù hợp với tính độc lập cần thiết của tư pháp và là biện pháp duy nhất trong Hiến pháp của chúng ta liên quan đến thẩm phán.

Một số ý kiến phàn nàn về việc thiếu quy định để bãi nhiệm thẩm phán do mất khả năng làm việc. Tuy nhiên, những người suy nghĩ thấu đáo sẽ nhận ra rằng một quy định như vậy hoặc sẽ không được áp dụng, hoặc dễ bị lạm dụng hơn là phục vụ mục đích tốt. Không có phương pháp rõ ràng để đánh giá năng lực trí tuệ. Việc cố gắng xác định ranh giới giữa khả năng và bất lực thường dẫn đến thiên vị cá nhân hoặc đảng phái, gây tổn hại đến công lý và lợi ích công chúng. Trừ trường hợp tâm thần rõ ràng, vốn đã được xem là lý do loại bỏ ngầm, các quyết định như vậy phần lớn sẽ mang tính tùy tiện.

Hiến pháp New York, để tránh những cuộc điều tra mơ hồ và nguy hiểm, đã chọn một độ tuổi cụ thể làm tiêu chí cho sự bất lực: không ai được làm thẩm phán sau sáu mươi tuổi. Nhiều người hiện nay không tán thành quy định này. Công việc của thẩm phán đòi hỏi sự sắc bén về tư duy, vốn thường được duy trì tốt sau độ tuổi đó ở những người sống lâu. Xét thêm rằng rất ít người vượt qua giai đoạn năng lực trí tuệ, và khó có khả năng nhiều thẩm phán cùng rơi vào tình trạng bất lực đồng thời, các giới hạn như vậy không mang lại giá trị đáng kể. Trong một nền cộng hòa nơi tài sản không dư dả và lương hưu không khả thi, việc buộc các thẩm phán đã phục vụ lâu dài và hữu ích, phụ thuộc vào lương bổng, và quá già để tìm việc làm khác, phải rời vị trí là không công bằng. Nỗi lo về một hội đồng thẩm phán già yếu là phóng đại và không đủ để biện minh cho quy định này.

Publius

Nguyễn Huy Vũ dịch và giới thiệu.

Mục lục trọn cuốn sách ở đây.


Đăng ngày

trong