Tác giả: Nguyễn Huy Vũ
Một người lãnh đạo quốc gia với đầu óc bình thường đều có ước muốn đem lại giàu mạnh cho nước mình và được mọi người yêu mến hay khâm phục. Ông Tô Lâm cũng như vậy, và vì lý do nào đó mà nếu ông muốn (?) trở thành Phác Chính Hy của Hàn Quốc hay Lý Quang Diệu của Singapore cũng là điều bình thường. Có điều là liệu ông có làm được điều đó hay không, và ông có thể làm được những gì trong hoàn cảnh hiện nay.
Điểm chung đầu tiên của Hàn Quốc và Singapore khi Phác Chính Hy và Lý Quang Diệu chấp chính đó là thời điểm cả hai phe quốc gia và cộng sản đấu tranh mãnh liệt. Độc tài cánh hữu mà chống cộng mãnh liệt như Phác Chính Hy và Lý Quang Diệu càng được Mỹ và các đồng minh hỗ trợ một cách nhiệt tình. Với sự hỗ trợ hết mình của Mỹ từ kinh tế cho tới công nghệ, Hàn Quốc và Singapore mới có thể cất cánh được. Hãy tưởng tượng xem có nước nào không được Mỹ hỗ trợ mà có thể trở thành cường quốc không? Không thể có. Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore — đó đều là các đối tác châu Á giàu có nhờ biết tận dụng mối quan hệ với Mỹ. Ngay cả với Trung Quốc hiện nay, họ đã ẩn mình chờ thời để trở nên lớn mạnh cũng nhờ ở công nghệ và thị trường Mỹ.
Điểm chung thứ hai đó là họ biết nuôi dưỡng tư bản tự do. Dù họ bị xem là độc tài về chính trị và kềm chế đối lập, dưới chế độ của Phác Chính Hy và Lý Quang Diệu, cả hai nước đều hỗ trợ tư bản và doanh nghiệp, họ thực hiện các chính sách kinh tế tự do tuân theo nguyên lý thị trường.
Các cố vấn kinh tế của Phác Chính Hy được gọi là Nhóm Chicago (Chicago Boys), những người chịu ảnh hưởng của trường phái kinh tế tự do, tức chính quyền để cho các doanh nghiệp được tự do cạnh tranh và chính quyền chỉ đứng ở sau hỗ trợ các doanh nghiệp một cách công bằng. Phác Chính Hy đã thực hiện các chính sách kinh tế tự do của mình đúng như khuyến nghị của nhóm Chicago này. Nhưng sau đó Phác Chính Hy đã đi xa hơn bằng cách hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu. Lý do là Hàn Quốc lúc bấy giờ cần ngoại tệ để trả nợ, duy trì nền kinh tế, và nhập máy móc để công nghiệp hoá, và thị trường trong nước còn quá nhỏ. Một lý do khác là Hàn Quốc nhìn thấy những thành công từ Nhật Bản, một nước đã rất thành công trong chính sách tăng trưởng dựa vào xuất khẩu. Các đại doanh nghiệp (chaebol) của Hàn Quốc nhận được những hỗ trợ khác nhau từ tài chính, đất đai, thuế và cả bảo hộ thị trường nội địa nhằm mục đích xuất khẩu. Tuy vậy, chính quyền kiểm soát chặt chẽ hệ thống ngân hàng, tránh trường hợp ngân hàng là sân sau của các đại doanh nghiệp.
Singapore cũng theo đuổi chiến lược phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu. Nhưng khác Hàn Quốc ở chổ là nếu Hàn Quốc tập trung vào xuất khẩu hàng điện tử và công nghiệp nặng, thì Singapore tập trung vào xuất khẩu dịch vụ tài chính, cung cấp dịch vụ cảng biển và vận chuyển. Cố vấn kinh tế cho Lý Quang Diệu ở thời kỳ đầu là Albert Winsemius, một kinh tế gia người Hà Lan. Những kinh nghiệm phát triển một nền kinh tế dựa vào cảng biển và hệ thống thương mại quốc tế được Albert Winsemius giới thiệu với Lý Quang Diệu. Singapore vì vậy ngay từ đầu đã mở cửa hoàn toàn nền kinh tế của mình. Từ chỗ phát triển và cung cấp dịch vụ, Singapore dần dần phát triển để trở thành một trung tâm khởi nghiệp, đón nhận tất cả các doanh nghiệp điện tử, công nghệ, và y sinh học hiện diện ở đây. Nếu như Hàn Quốc hỗ trợ các đại công ty thì Singapore xây dựng mô hình nhà nước như một đại công ty Singapore Inc. mà ở đó nhà nước đóng vai trò chủ động trong việc xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút đầu tư, và khởi xướng các ngành công nghiệp trọng điểm. Có vài lý do để Singapore làm được như vậy. Lý do đầu tiên là họ có những lãnh đạo trong sạch và có năng lực quản trị. Lý do thứ hai là Singapore quá nhỏ, dân số quá ít, nên dễ quản lý và tư bản không nhiều mà một số ngành công nghiệp đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro. Và lý do thứ ba là nếu Singapore chỉ phụ thuộc vào dịch vụ và thương mại thì không đủ để đa dạng hoá nền kinh tế, vì vậy nếu muốn nền kinh tế trở nên cân bằng trước các rủi ro buộc lãnh đạo phải có tầm nhìn mà đa dạng hoá đầu tư vào các lãnh vực khác nhau, không chỉ dịch vụ mà cả sản xuất và đầu tư ra bên ngoài. Đó là lý do mà Singapore còn có cả một quỹ đầu tư của nhà nước.
Điểm chung thứ ba là cả hai nước đều trọng nhân tài một cách thực chất. Singapore từ lâu là một cái nôi để nhân tài khắp nơi, đặc biệt là châu Á, đổ về làm việc, đầu tư và học tập. Ở đây, từ người dân đến quan chức chính phủ ai cũng khắc ghi trong lòng rằng nhờ có nhân tài thế giới mà Singapore có được như ngày hôm nay. Mỗi cuối năm, trong các thông điệp của chính quyền, người lãnh đạo quốc gia đều nhắc đến sự đóng góp của nhân tài nước ngoài cho sự thịnh vượng của Singapore. Hàn Quốc cũng tương tự. Ngay từ lúc chấp chính Phác Chính Hy đã đón nhận các chuyên gia được đào tạo từ Chicago để lắng nghe và thi hành các chính sách kinh tế tự do theo khuyến nghị của họ. Cả hai nước không chỉ đón nhận nhân tài nước ngoài mà họ còn mở các trường đại học, các viện nghiên cứu để đào tạo nhân tài cho nước mình và khắp thế giới. Ngày nay, ai cũng biết các trường đại học của Singapore và Hàn Quốc thuộc nhóm những trường tốt nhất về học thuật và nghiên cứu ở châu Á và thế giới.
Điểm chung thứ tư là cả hai nước dưới thời Phác Chính Hy và Lý Quang Diệu đã tập trung xây dựng hệ thống công chức chuyên nghiệp và một nền hành chính hiệu quả. Ở cả hai nước, công chức được chọn lựa một cách cạnh tranh. Họ phải được thi tuyển một cách công bằng và minh bạch. Công chức sau đó sẽ trải qua các khoá đào tạo khác nhau về quản lý công, phát triển kỹ năng lãnh đạo và quản lý dự án, từ trong nước và nước ngoài. Chế độ đãi ngộ xứng đáng và cơ hội thăng tiến đã giúp thu hút những cá nhân xuất sắc cho hệ thống công chức. Nhờ có hệ thống công chức chuyên nghiệp, các chính sách công nghiệp hoá mới có thể được triển khai một cách hiệu quả.
Tóm lại, những bài học về sự thành công ở trên của Hàn Quốc và Singapore, một cách tổng quan, dựa chủ yếu vào chính sách ngoại giao, chính sách kinh tế, chính sách đãi ngộ nhân tài, và chính sách xây dựng hệ thống hành chính hiệu quả. Lẽ dĩ nhiên từ những trụ cột này, các chính sách khác được khai triển thêm. Tuy vậy, đó là những chính sách trụ cột làm nên sự thịnh vượng của một quốc gia.
Nhìn lại những bài học thành công ở trên của Hàn Quốc và Singapore dưới sự lãnh đạo của Phác Chính Hy và Lý Quang Diệu, bạn nghĩ Tổng bí thư Tô Lâm có bao nhiêu phần trăm khả năng thành công? Tôi nghĩ không nhiều.
Việt Nam ngày nay dưới chế độ cộng sản không dựa vào Mỹ như Hàn Quốc và Singapore , mà theo chính sách đi dây giữa Trung Quốc và Mỹ. Khi đi dây như vậy, bạn không có bạn thân nhưng bạn có thể có kẻ thù.
Kinh tế Việt Nam vẫn còn bị can thiệp nặng nề bởi nhà nước và nhóm tư bản thân hữu. Tệ hơn nữa, phía sau các đại công ty của Việt Nam là các ngân hàng. Các ngân hàng này thay vì chọn những dự án tốt nhất để đầu tư nhằm tăng năng suất chung cho nền kinh tế thì chỉ bỏ tiền cho những dự án của các ông chủ của mình. Hệ thống hành chính Việt Nam không có phân quyền đáng kể và các chính quyền địa phương không có khả năng và không có trách nhiệm phát triển kinh tế địa phương. Hậu quả là chỉ có một số doanh nghiệp lớn có quan hệ chính trị với quan chức trung ương thì phát triển nhanh chóng, còn phần còn lại thì bị chèn ép hoặc bỏ rơi tự xoay sở ở địa phương nếu không có quan hệ chính trị.
Giới lãnh đạo Việt Nam hiện nay dị ứng với phản biện và như vậy thì làm sao đón nhận được nhân tài? Đi xa hơn, muốn phát triển những trường đại học và những viện nghiên cứu hàng đầu thì phải có tự do học thuật, tự do ngôn luận, tự do phản biện, và tự do thông tin, ít nhất là trong khuôn viên nhà trường, và sau khi có những thứ tự do trong khuôn viên nhà trường rồi thì sớm muộn gì nó cũng sẽ lan ra toàn xã hội. Vậy thì lãnh đạo Việt Nam có dám chấp nhận tự do ngôn luận và phản biện chăng? Nếu không dám chấp nhận thì làm sao xây được những môi trường học thuật hàng đầu của khu vực và thế giới? Không có nhân tài thì lấy ai xây dựng quốc gia?
Và cuối cùng, để chính quyền có thể thực thi chính sách hiệu quả, nó cần một hệ thống công chức chuyên nghiệp được tuyển chọn công khai, minh bạch, và dựa trên năng lực. Nhưng nếu tuyển công chức như vậy thì lẽ nào phải giải tán các chi bộ đảng Cộng sản ở cơ sở? Những thành phần “con cháu các cụ” nằm trong hệ thống mà không có năng lực giờ phải đi đâu về đâu?
Sau một năm cầm quyền, ngoại trừ việc hô hào và giương cao những khẩu hiệu sáo rỗng, không thực chất như “kỷ nguyên mới”, “sắp xếp lại giang sơn”, tôi không thấy Tô Lâm thực hiện được những cải cách mang tính thực chất. Kể cả chuyện sắp xếp lại các cơ quan hành chính. Việc sắp xếp lại các hệ thống hành chính là việc phải làm, và có nhiều cách khác nhau đáng lẽ có thể thực hiện được nhằm làm cho hệ thống chạy hiệu quả hơn nhưng Tô Lâm và nhóm cố vấn của ông ta đã bỏ qua. Một ví dụ là chỉ cần giữ lại chính quyền huyện và hình thành các chính quyền vùng đại diện quản lý các tỉnh trong vùng là đủ. Không cần phải đổi tên các tỉnh, huyện hay xã, để tránh rối loạn hệ thống. Với các phương tiện giao thông phổ biến như hiện nay, người dân dễ dàng lên huyện để thực hiện các thủ tục giấy tờ. Các đầu mối từ tỉnh và vùng xuống huyện cũng không nhiều, dễ quản lý. Từ những chuyện nhỏ như vậy mà chính quyền của ông Tô Lâm không thể giải quyết được thì mong gì ông có thể giải quyết được những chuyện lớn, phức tạp hơn nhiều?
1/8/2025