Ba năm cuộc chiến Ukraine

Tác giả: Nguyễn Huy Vũ.

Ngay khi cuộc chiến Ukraine và Nga vừa diễn ra, tôi gặp một anh thanh niên Ukraine dẫn theo người bạn gái của mình. Họ bay thẳng từ Ukraine qua Nam Mỹ. Anh còn trẻ, khoảng 20 tuổi. Anh bảo cứ qua đây nhưng chưa biết đi đâu. 

Các nước Nam Mỹ dễ nhập cư. Họ nhận đủ hạng người, người tị nạn, người đầu tư, chuyên gia, người không quốc tịch, và cả người ở không giấy tờ cũng không vấn đề gì. Đó là những nước tự do, tự do hơn cả Mỹ và châu Âu, và có lẽ vì quá tự do như vậy nên tội phạm cũng nhiều. 

Anh qua đây để trốn chiến tranh, trốn quân dịch, và không muốn mình phải chết sớm. Với những bậc chánh nhân quân tử, những người luôn tỏ ra rằng mình yêu nước và không sợ chết thì những người như anh là hèn, là không yêu nước. Nhưng với anh, một kỹ sư công nghệ thông tin, thì điều đó chẳng phải là vấn đề gì lớn. Anh chẳng có những ước mơ hay hoài bão gì xa xôi, ước mơ giản dị của anh và người bạn gái của mình chỉ là được sống hạnh phúc trong một môi trường hoà bình. 

Sau đó, thỉnh thoảng tôi gặp những cặp đôi người Ukraine trẻ khác. Họ bày tỏ lòng nuối tiếc về Crimea nơi mà như họ nói là rất đẹp và họ có những kỷ niệm ở đó. Họ tức giận Nga đã chiếm đóng những vùng đất của Ukraine. Và họ cũng bày tỏ hi vọng rằng chiến tranh rồi sẽ kết thúc để họ có dịp trở về. 

Điểm chung của những thanh niên trẻ này là ai cũng có lòng yêu nước — tình cảm được định nghĩa như là tình yêu đối với quê hương của mình. Họ biết rằng cuộc chiến quá tàn khốc và họ nhanh chóng bỏ chạy khỏi quê hương vì muốn bảo toàn mạng sống của chính mình. Họ có thể bị chính quyền Ukraine của tổng thống Zelenski kết án là trốn quân dịch và có thể bị bỏ tù nếu bắt được, nhưng mặc kệ, sự an toàn cho chính họ và gia đình họ là điều quan trọng nhất. 

Họ may mắn hơn những người bạn của mình, những người không kịp chạy và giờ đây có lẽ đã nằm dưới những bia mộ xanh rêu. 

Với những người lãnh đạo quốc gia, những người ngồi trong phòng kín để đưa ra những quyết định, mỗi một chiến sỹ hi sinh chỉ là một con số. Ngược lại, đối với người thân của những quân nhân mỗi chiến sỹ là một con người, một tình cảm, một phần của gia đình, và là một tình thương yêu vô bờ bến. 

Một người lãnh đạo yêu nước phải là một người đừng để chiến tranh xảy ra, và nếu đã lỡ xảy ra thì phải giảm thiểu tổn thất ít nhất có thể. 

Sau 3 năm chiến tranh, theo những số liệu khác nhau phía Ukraine có khoảng 700 ngàn binh sỹ chết và bị thương, còn phía Nga có khoảng 1 triệu người. Ukraine có khoảng 10 triệu thanh niên trong độ tuổi chiến đấu. Điều đó có nghĩa là cứ 100 thanh niên thì có 7 người bị chết hoặc bị thương không thể chiến đấu. Đó là những con số khủng khiếp. 

Nhưng vấn đề lớn hơn đó là nếu không có sự can thiệp của Mỹ muốn chiến tranh kết thúc sớm, cuộc chiến sẽ không kết thúc. 

Một cuộc chiến chỉ kết thúc khi một phe đánh bại và khuất phục hoàn toàn phe còn lại. Ukraine không đủ lực để chiếm hoàn toàn nước Nga, một cường quốc vũ khí hạt nhân. Nga có nhiều khả năng chiếm Ukraine nếu không có sự hỗ trợ của Mỹ và châu Âu. Với sự hỗ trợ của Mỹ và châu Âu, Ukraine sẽ tiếp tục chiến đấu cầm chừng, tiếp tục tổn hao sinh mạng của binh sỹ nhưng không thể đạt được thắng lợi quyết định của cuộc chiến. 

Sau Nga có sự hỗ trợ của Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, và Iran. Sau Ukraine là châu Âu và Mỹ. Cuộc chiến giữa Nga và Ukraine hiện nay thực chất là cuộc chiến uỷ nhiệm mà nhiều người có thể gọi nó là cuộc chiến tranh thế giới. Trong cuộc chiến này các cường quốc hỗ trợ chiến đấu trên sinh mạng của Ukraine và Nga. 

Cả hai bên đều biết rằng họ đã mệt mỏi vì cuộc chiến và muốn một thoả hiệp hoà bình. Câu chuyện là giờ đây thoả hiệp đó sẽ như thế nào.

Với Hoa Kỳ, cuộc chiến Ukraine và Nga giờ đây chỉ là một nước cờ trong công cuộc tái phối trí địa chính trị mà họ sẽ cố gắng chuyển trọng tâm sang châu Á. Các quan chức Hoa Kỳ đã liên tục đề cập đến vấn đề này với các đối tác châu Âu của họ. 

Tuy vậy vì lực lượng châu Âu chưa có sự chuẩn bị để đảm trách các vấn đề an ninh cho chính mình, dự định là Hoa Kỳ có thể sẽ phải giữ lại một phần quân lực của mình ở châu Âu và chuyển dần các lực lượng sang châu Á – Thái Bình Dương. 

Mục tiêu cuối cùng của Hoa Kỳ đó là để châu Âu tái vũ trang, tự chủ quốc phòng của mình và Hoa Kỳ sẽ chuẩn bị cho cuộc đua vũ trang với Trung Quốc. 

Nga đã suy yếu, cô lập và mất dần các mối bán vũ khí. Trong quá khứ, lĩnh vực quốc phòng của Nga vẫn còn phát triển vì nó còn có nhiều bạn hàng. Sau cuộc chiến Ukraine, các bạn hàng của Nga sẽ lần lượt bỏ đi. Việc thiếu các bạn hàng vũ khí khiến việc sản xuất vũ khí theo số nhiều không thể thực hiện và sẽ không đem lại nhiều lợi nhuận. Theo thời gian, điều này buộc Nga phải thu hẹp ngành quốc phòng và cuối cùng dẫn đến tụt hậu. 

Mỹ vẫn đang dùng chiến lược bên bờ vực chiến tranh với Nga. Mỹ cô lập và ép Nga đến mức có thể nhưng tránh để xảy ra chiến tranh với Nga. Chiến lược này họ đã dùng trong Chiến tranh Lạnh giữa Liên Xô và Hoa Kỳ. Có thể trong những ngày đàm phán tới, vì muốn kéo Nga về phía mình, Mỹ có thể có những nhượng bộ bằng cách rút lại một vài sự cô lập với điều kiện Nga đồng ý hợp tác. 

Bên cạnh đó, nếu để ý sẽ thấy Mỹ gia tăng chiến lược bên bờ vực chiến tranh với Trung Quốc bằng cách ép Trung Quốc từ từ nhưng vẫn cố gắng duy trì các kênh ngoại giao nóng hầu tránh một cuộc xung đột không kiểm soát diễn ra. Donald Trump vẫn gọi Tập Cận Bình là bạn, nhưng thuế vẫn đánh từ từ, kiểm soát công nghệ cao vẫn tiếp tục gia tăng. 

Về phía mình, Donald Trump hứa hẹn khi bầu cử rằng ông ta sẽ cắt giảm chi tiêu chính phủ và chấm dứt cuộc chiến trong vòng 24h. Vì vậy ông ta ở trong một thế rất khó để mà thuyết phục Quốc hội và cử tri rằng Mỹ sẽ tiếp tục tài trợ miễn phí cho Ukraine. Ông ta cần “lên gân chính trị” để lấy lòng cử tri của mình và sẽ dễ dàng hơn cho ông rất nhiều để nói với cử tri và Quốc hội rằng số tiền này là chúng ta dùng để mua nguyên liệu cho ngành công nghiệp của quốc gia. Việc tuyên bố rằng sẽ chấm dứt cuộc chiến trong vòng 24h đó là cách mà ông gửi một tín hiệu đến các bên khác nhau của cuộc chiến rằng ông muốn đạt một thoả thuận hoà bình nhanh chóng. 

Đối với Vladimir Putin, chắc chắn rằng ông ta sẽ khó có thể từ bỏ những vùng đất mà ông ta chiếm được. Nhưng việc Ukraine tiếp tục chiến đấu cũng khó mà thay đổi hiện trạng trong tình hình hiện nay. 

Tuy vậy, chính quyền Hoa Kỳ có nhiều lợi thế hơn Nga vì Nga đã rất mệt mỏi trong cuộc chiến. Hoa Kỳ có thể đưa ra tín hiệu cho Nga rằng hoặc Nga chấp nhận một thoả thuận hoà bình có lợi cho Hoa Kỳ và một phần có lợi cho Ukraine, còn hơn là để châu Âu quyết định can thiệp nhiều hơn, chi tiêu nhiều hơn cho cuộc chiến để dẫn đến việc khó chấm dứt chiến tranh hơn. Nga khó có thể nào sống yên ổn vì dù gì nền kinh tế của Nga cũng đã ở trong cơn khủng hoảng.

Với Zelenski ông là một biểu tượng của tinh thần chống quân xâm lược. Dù cho quân Ukraine giờ đây không thể nào tiến lên được nữa thì ông cũng không thể nào tuyên bố chấp nhận một thực tế rằng Ukraine đã bị mất đất và các vùng đất đó khó có thể hồi phục. Là một người lãnh đạo, dĩ nhiên ông phải luôn động viên binh sỹ và luôn tuyên bố bằng mọi giá phải lấy lại những vùng đất đã bị mất. Ông cũng sẽ không chấp nhận việc đổi đất (đã mất) lấy hoà bình vì điều đó tự nó làm mất đi tính chính nghĩa sự lãnh đạo của mình. Vì vậy, một người dám và có thể ký một hiệp định hoà bình (khá nhục nhã) mà trong đó Ukraine chấp nhận mất đi phần đất đã bị chiếm (nếu có một hiệp định như vậy), thì người ký đó có thể phải là người khác. Đó là lý do mà phía Mỹ đã kêu gọi thực thi bầu cử tự do ở Ukraine. 

Để kéo các bên ngồi lại bàn đàm phán và đi tới một thoả thuận, nó đòi hỏi những nhượng bộ và áp lực.  Từ đây đến thoả thuận hoà bình, các phát biểu qua lại của các lãnh đạo Mỹ, Ukraine, Nga hay châu Âu chỉ là các chiến thuật tung hoả mù, ra tín hiệu, bên cạnh những đàm phán bí mật mà nó đã bắt đầu từ ngay sau khi tổng thống Donald Trump đắc cử. Cho đến khi các thoả thuận chính thức đồng ý và ký kết, các màn khẩu chiến sẽ còn tiếp tục và đó là điều bình thường của các bên trong việc tạo áp lực tối đa nhằm đưa các phe còn lại đến gần hơn với các thoả thuận.

23/2/2025