Kinh tế học trong một bài học. Chương 24: Bài học được nhắc lại

Tác giả: Henry Hazlitt.

Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.

Biên dịch: Phong trào Duy Tân.

Chương 24: Bài học được nhắc lại

1

Như chúng ta đã thấy nhiều lần, kinh tế học là khoa học về việc nhận ra các hệ quả thứ cấp. Nó cũng là khoa học về việc nhìn thấy các hệ quả tổng thể. Đó là khoa học truy vết những tác động của một chính sách được đề xuất hay đã hiện hành, không chỉ đối với một nhóm lợi ích đặc biệt nào đó trong ngắn hạn, mà còn đối với lợi ích chung trong dài hạn.

Đây chính là bài học mà cuốn sách này đặc biệt chú trọng. Chúng ta đã trình bày nó một cách sơ lược ngay từ đầu, rồi sau đó làm rõ và cụ thể hóa thông qua hơn hai mươi ví dụ thực tiễn.

Tuy nhiên, trong quá trình minh họa cụ thể, chúng ta cũng bắt gặp những gợi ý về các bài học tổng quát khác; và sẽ là điều đúng đắn nếu chúng ta tự nhắc lại những bài học này một cách rõ ràng hơn.

Khi nhận ra rằng kinh tế học là khoa học về việc truy vết các hệ quả, chúng ta hẳn cũng đã nhận thức được rằng, giống như logic và toán học, nó là khoa học về việc nhận ra những hàm ý tất yếu.

Ta có thể minh họa điều này bằng một phương trình đại số cơ bản. Giả sử ta nói rằng nếu x = 5 thì x + y = 12. “Lời giải” cho phương trình này là y bằng 7; nhưng điều đó đúng chính là vì bản thân phương trình đã hàm ý rằng y bằng 7. Phương trình không khẳng định điều này một cách trực tiếp, nhưng nó tất yếu dẫn đến kết luận đó.

Điều đúng với phương trình cơ bản này cũng đúng với những phương trình phức tạp và khó hiểu nhất trong toán học. Đáp án đã nằm sẵn trong đề bài. Dĩ nhiên, ta vẫn phải “giải” bài toán. Đúng là kết quả đôi khi có thể đến với người giải như một cú sốc bất ngờ. Thậm chí anh ta có thể cảm thấy như thể mình vừa khám phá ra điều gì đó hoàn toàn mới – một cảm giác phấn khích giống như “một người quan sát bầu trời khi thấy một hành tinh mới trôi vào tầm mắt.” Cảm giác khám phá đó có thể được biện minh bởi những hệ quả lý thuyết hoặc thực tiễn từ câu trả lời của anh ta. Thế nhưng, câu trả lời đó thực ra đã nằm sẵn trong đề bài từ trước. Nó chỉ đơn giản là chưa được nhận ra ngay. Toán học nhắc nhở chúng ta rằng những hàm ý tất yếu không nhất thiết là những hàm ý hiển nhiên.

Tất cả những điều này cũng đúng với kinh tế học. Ở khía cạnh này, kinh tế học có thể được so sánh với kỹ thuật. Khi một kỹ sư đối mặt với một vấn đề, trước tiên anh ta phải xác định tất cả các dữ kiện liên quan đến vấn đề đó. Nếu anh ta thiết kế một cây cầu nối hai điểm, anh ta trước hết phải biết khoảng cách chính xác giữa hai điểm đó, đặc điểm địa hình cụ thể của chúng, tải trọng tối đa mà cây cầu được thiết kế để chịu, độ bền kéo và độ bền nén của thép hoặc vật liệu khác được sử dụng để xây cầu, cũng như các ứng suất và biến dạng mà công trình có thể phải chịu. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm về những dữ kiện này đã được người khác thực hiện từ trước. Các bậc tiền bối của anh ta cũng đã phát triển những phương trình toán học phức tạp, nhờ đó, khi đã biết độ bền của vật liệu và các lực mà chúng sẽ phải chịu, anh ta có thể xác định được đường kính, hình dạng, số lượng và kết cấu cần thiết của các trụ cầu, cáp treo và dầm chính.

Tương tự, một nhà kinh tế học khi giải quyết một vấn đề thực tiễn phải nắm rõ cả những dữ kiện cốt lõi của vấn đề đó lẫn các suy luận hợp lý có thể rút ra từ những dữ kiện này. Khía cạnh suy luận của kinh tế học có tầm quan trọng không kém khi so với khía cạnh dữ kiện. Như Santayana đã nói về logic—và điều này cũng có thể áp dụng cho toán học—rằng nó “theo dõi sự lan tỏa của chân lý,” để khi một yếu tố trong hệ thống logic được xác định là phản ánh một sự thật, toàn bộ hệ thống liên quan đến yếu tố đó trở nên, như thể, rực rỡ và sáng tỏ.

Rất ít người nhận ra những hệ quả tất yếu của các phát biểu kinh tế mà họ liên tục đưa ra. Khi họ nói rằng cách để cứu vãn nền kinh tế là gia tăng “tín dụng”, điều đó chẳng khác nào họ nói rằng cách để cứu vãn nền kinh tế là gia tăng nợ nần: đây chỉ là hai cách gọi khác nhau cho cùng một thứ khi nhìn từ hai phía đối lập. Khi họ nói rằng con đường dẫn đến thịnh vượng là tăng giá nông sản, thì cũng giống như nói rằng con đường dẫn đến thịnh vượng là khiến thực phẩm trở nên đắt đỏ hơn đối với người lao động thành thị. Khi họ nói rằng cách để làm giàu cho quốc gia là chi trả cho các khoản trợ cấp của chính phủ, thì trên thực tế, họ đang nói rằng cách để làm giàu cho quốc gia là tăng thuế. Khi họ coi việc gia tăng xuất khẩu là mục tiêu chính, thì phần lớn trong số họ không nhận ra rằng điều đó tất yếu cũng có nghĩa là cuối cùng phải coi việc gia tăng nhập khẩu là một mục tiêu chủ chốt. Khi họ khẳng định rằng, trong hầu hết các trường hợp, con đường dẫn đến phục hồi kinh tế là tăng mức lương, họ chỉ đang diễn đạt theo cách khác rằng con đường dẫn đến phục hồi là làm tăng chi phí sản xuất.

Không nhất thiết phải kết luận rằng một đề xuất là không hợp lý trong mọi trường hợp chỉ vì mỗi đề xuất đều có mặt trái của nó, hoặc vì cách gọi khác của biện pháp khắc phục nghe có vẻ kém hấp dẫn hơn. Có những trường hợp mà việc tăng nợ có thể là một yếu tố thứ yếu so với những lợi ích đạt được từ các khoản vay; khi trợ cấp chính phủ là không thể tránh khỏi để đạt được một mục tiêu cụ thể; hoặc khi một ngành công nghiệp nhất định có thể chịu được chi phí sản xuất tăng cao. Tuy nhiên, trong mỗi trường hợp, chúng ta cần đảm bảo rằng cả hai mặt lợi và hại của đề xuất đã được xem xét kỹ lưỡng, điều mà hiếm khi được thực hiện một cách đầy đủ.

2

Việc phân tích các ví dụ minh họa của chúng ta đã đem lại một bài học phụ khác. Đó là khi chúng ta nghiên cứu tác động của nhiều đề xuất khác nhau, không chỉ đối với các nhóm đặc biệt trong ngắn hạn, mà đối với tất cả các nhóm trong dài hạn, thì những kết luận mà ta đi đến thường lại trùng khớp với lẽ thường đơn giản. Nếu không bị ảnh hưởng bởi sự hiểu biết nửa vời đang lan rộng trong kinh tế học hiện nay, sẽ chẳng ai lại nghĩ rằng việc đập vỡ cửa sổ và phá hủy thành phố là điều tốt; rằng việc tạo ra những dự án công không cần thiết không phải là lãng phí; rằng thật nguy hiểm nếu để những người thất nghiệp trở lại làm việc; rằng những cỗ máy làm tăng sản lượng và tiết kiệm sức lao động cho con người lại là thứ đáng sợ; rằng cản trở sản xuất và tiêu dùng tự do sẽ làm gia tăng của cải; rằng một quốc gia sẽ trở nên giàu có hơn bằng cách buộc các quốc gia khác phải nhận hàng hóa của mình với mức giá thấp hơn chi phí sản xuất; rằng tiết kiệm là điều ngu ngốc hay xấu xa, còn phung phí thì mang lại thịnh vượng.

Adam Smith lập luận rằng điều gì là thận trọng trong việc quản lý một gia đình riêng lẻ thì khó có thể là ngu ngốc khi áp dụng cho một vương quốc lớn. Tuy nhiên, những người kém năng lực thường bị rối trong những phức tạp và không xem xét lại lập luận của mình, ngay cả khi họ đưa ra những kết luận rõ ràng là phi lý. Một số người có thể đồng ý với câu châm ngôn của Bacon rằng “một chút triết học khiến tâm trí con người nghiêng về vô thần, nhưng sự hiểu sâu sắc về triết học đưa tâm trí con người trở lại với tôn giáo.” Tương tự, một sự hiểu biết sơ sài về kinh tế học dễ dàng dẫn đến những kết luận kỳ lạ và vô lý, trong khi sự hiểu biết sâu sắc về kinh tế học đưa con người trở lại với lẽ thường. Sự sâu sắc trong kinh tế học nằm ở việc xem xét tất cả các hệ quả của một chính sách, thay vì chỉ tập trung vào những hệ quả trực tiếp nhìn thấy được.

3

Trong quá trình nghiên cứu, chúng ta cũng đã gặp lại một người bạn cũ. Đó chính là Người Bị Lãng Quên của William Graham Sumner. Người đọc hẳn còn nhớ trong bài luận của Sumner, xuất bản năm 1883, có đoạn viết:

“Ngay khi A nhận thấy điều gì đó dường như sai trái khiến X phải chịu đựng, A sẽ bàn bạc với B, rồi A và B đề xuất thông qua một đạo luật nhằm khắc phục cái sai và giúp đỡ X. Đạo luật của họ luôn yêu cầu C phải làm gì đó cho X, hoặc trong trường hợp khả quan hơn, yêu cầu A, B và C cùng làm gì đó cho X… Điều tôi muốn làm là đi tìm C… Tôi gọi anh ta là Người Bị Lãng Quên… Anh ta là người chẳng ai nghĩ đến. Anh ta là nạn nhân của các nhà cải cách, nhà lý luận xã hội và các nhà từ thiện, và tôi hy vọng sẽ cho các bạn thấy trước khi kết thúc rằng anh ta xứng đáng được chú ý, cả vì phẩm chất cá nhân và vì bao gánh nặng mà anh ta phải gánh chịu.”

Một nghịch lý lịch sử là khi cụm từ “Người bị lãng quên” được tái sử dụng vào những năm 1930, nó lại được áp dụng không phải cho C, mà cho X; và C, người lúc đó đang bị yêu cầu hỗ trợ thêm nhiều X nữa, lại càng bị lãng quên hơn bao giờ hết. Chính C, Người bị lãng quên, luôn là người phải gánh vác chi phí cho lòng hào phóng gián tiếp của các chính trị gia, để làm dịu đi nỗi đau lòng của họ.

4

Việc nghiên cứu bài học của chúng ta sẽ chưa thể trọn vẹn nếu, trước khi khép lại, chúng ta không nhận thấy rằng ngụy biện căn bản mà ta đã phân tích suốt từ đầu đến giờ không phải là điều xuất hiện ngẫu nhiên, mà mang tính hệ thống. Trên thực tế, nó gần như là kết quả tất yếu của sự phân công lao động.

Trong một cộng đồng nguyên thủy, hoặc giữa những người khai hoang khi phân công lao động còn chưa hình thành, con người chỉ làm việc cho bản thân hoặc cho gia đình trực hệ của mình. Những gì anh ta tiêu dùng cũng chính là những gì anh ta làm ra. Luôn có mối liên hệ trực tiếp và tức thì giữa sản phẩm mà anh ta tạo ra và sự thỏa mãn của anh ta.

Nhưng khi một sự phân công lao động chi tiết và phức tạp đã hình thành, mối liên hệ trực tiếp và tức thì ấy không còn nữa. Tôi không còn tự làm ra tất cả những gì tôi tiêu dùng, mà có thể chỉ làm ra một trong số đó. Với thu nhập tôi kiếm được từ việc làm ra một mặt hàng hoặc cung cấp một dịch vụ này, tôi mua mọi thứ còn lại. Tôi muốn giá của mọi thứ tôi mua thật thấp, nhưng tôi lại có lợi nếu giá hàng hóa hay dịch vụ mà tôi đang bán cao lên. Do đó, dù tôi mong muốn thấy sự phong phú ở mọi lĩnh vực khác, nhưng lợi ích của tôi lại nằm ở sự khan hiếm tồn tại trong chính mặt hàng mà tôi cung cấp. Sự khan hiếm càng lớn, so với những thứ khác, trong lĩnh vực mà tôi kinh doanh, thì phần thưởng tôi có thể nhận được cho công sức của mình sẽ càng cao.

Điều này không nhất thiết có nghĩa là tôi sẽ hạn chế nỗ lực hoặc sản lượng của chính mình. Thực tế, nếu tôi chỉ là một trong số nhiều người cung cấp một loại hàng hóa hoặc dịch vụ trong một thị trường cạnh tranh tự do, việc tự giới hạn sản lượng sẽ không mang lại lợi ích cho tôi. Chẳng hạn, với tư cách là một người trồng lúa mì, tôi mong muốn vụ mùa của riêng mình đạt sản lượng cao nhất có thể. Tuy nhiên, nếu tôi chỉ quan tâm đến lợi ích vật chất cá nhân và không có những lo ngại về mặt đạo đức, tôi sẽ mong muốn sản lượng của tất cả các nhà sản xuất lúa mì khác thấp nhất có thể. Điều này tạo ra sự khan hiếm lúa mì (hoặc các thực phẩm thay thế), giúp vụ mùa của tôi đạt được giá bán cao nhất có thể.

Thông thường, những toan tính vị kỷ như vậy sẽ không ảnh hưởng gì đến tổng sản lượng lúa mì. Trong môi trường cạnh tranh, thực tế là mỗi nhà sản xuất đều buộc phải dốc toàn lực để đạt sản lượng cao nhất trên mảnh đất của mình. Bằng cách đó, các động lực lợi ích cá nhân (vốn có sức mạnh bền bỉ hơn lòng vị tha, dù tốt hay xấu) được khai thác để thúc đẩy sản lượng tối đa.

Nhưng nếu những người trồng lúa mì, hoặc bất kỳ nhóm người sản xuất nào khác, có khả năng liên kết lại để loại bỏ cạnh tranh, và nếu chính phủ cho phép hoặc khuyến khích điều đó, thì tình hình sẽ khác. Những người trồng lúa mì có thể thuyết phục chính phủ quốc gia – hoặc lý tưởng hơn, một tổ chức toàn cầu – ép buộc tất cả phải cắt giảm diện tích trồng lúa mì theo tỷ lệ tương ứng. Bằng cách đó, họ sẽ tạo ra tình trạng thiếu hụt và đẩy giá lúa mì lên; và nếu mức tăng giá trên mỗi giạ lúa mì lớn hơn tỷ lệ giảm sản lượng, điều hoàn toàn có thể xảy ra, thì những người trồng lúa mì nói chung sẽ có lợi. Họ sẽ thu được nhiều tiền hơn; họ sẽ có thể mua được nhiều thứ khác hơn. Mọi người khác, dĩ nhiên, sẽ thiệt thòi hơn; vì nếu các yếu tố khác không đổi, mọi người sẽ phải trao đổi nhiều sản phẩm của mình hơn để nhận được ít sản phẩm của người trồng lúa mì hơn. Như vậy, quốc gia nói chung sẽ nghèo đi. Nó sẽ nghèo đi chính bằng số lượng lúa mì không được trồng ra. Nhưng những ai chỉ nhìn vào những người trồng lúa mì sẽ thấy có lợi ích, và bỏ qua tổn thất còn lớn hơn thế.

Và điều này đúng trong mọi lĩnh vực khác. Nếu do điều kiện thời tiết bất thường mà sản lượng cam tăng đột biến, tất cả người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi. Thế giới sẽ giàu có hơn nhờ có thêm nhiều cam hơn. Giá cam sẽ rẻ hơn. Nhưng chính điều đó có thể khiến những người trồng cam nhìn chung trở nên nghèo hơn, trừ khi lượng cam tăng thêm bù đắp hoặc hơn hẳn sự sụt giảm giá cả. Chắc chắn rằng, nếu trong hoàn cảnh đó mà sản lượng cam của tôi không lớn hơn bình thường, thì tôi chắc chắn sẽ bị thiệt bởi giá thấp hơn do tình trạng dư thừa chung mang lại.

Và điều đúng với những thay đổi về cung cũng đúng với những thay đổi về cầu, dù là do những phát minh và khám phá mới hay do thị hiếu thay đổi. Một chiếc máy hái bông mới, tuy có thể làm giảm chi phí sản xuất đồ lót và áo sơ mi cotton cho mọi người và làm tăng của cải chung, sẽ khiến hàng ngàn công nhân hái bông mất việc. Một chiếc máy dệt mới, dệt ra vải tốt hơn với tốc độ nhanh hơn, sẽ khiến hàng ngàn máy dệt cũ trở nên lỗi thời và làm mất đi một phần giá trị vốn đầu tư vào chúng, khiến chủ sở hữu những chiếc máy đó trở nên nghèo hơn. Việc phát triển năng lượng nguyên tử, dù có thể đem lại vô vàn lợi ích cho nhân loại, lại là điều khiến những chủ sở hữu mỏ than và giếng dầu lo ngại.

Cũng giống như không có cải tiến kỹ thuật nào mà lại không gây tổn hại cho một ai đó, thì cũng không có thay đổi nào trong thị hiếu hay đạo đức xã hội, dù là thay đổi theo hướng tốt hơn, mà lại không gây thiệt hại cho một số người. Sự gia tăng của lối sống tiết chế rượu bia sẽ khiến hàng ngàn nhân viên pha chế mất việc. Sự suy giảm của hoạt động cờ bạc sẽ buộc những tay chia bài và môi giới đua ngựa phải tìm kiếm những nghề nghiệp có ích hơn. Sự gia tăng đức hạnh của nam giới sẽ khiến nghề lâu đời nhất thế giới sụp đổ.

Nhưng không chỉ những người cố tình chiều theo thói hư tật xấu của con người mới bị tổn hại khi đạo đức xã hội đột nhiên được cải thiện. Một trong những nhóm bị thiệt hại nhiều nhất lại chính là những người có công việc nhằm cải thiện đạo đức đó. Các nhà truyền giáo sẽ có ít điều để phê phán hơn; các nhà cải cách sẽ mất đi lý do tồn tại của họ: nhu cầu cho dịch vụ của họ và các khoản đóng góp để hỗ trợ họ sẽ suy giảm. Nếu không còn tội phạm, chúng ta sẽ cần ít luật sư, thẩm phán và lính cứu hỏa hơn, và sẽ không cần cai ngục, thợ khóa, và (ngoại trừ một vài dịch vụ như giải quyết ùn tắc giao thông) thậm chí không cần cảnh sát.

Tóm lại, trong một hệ thống phân công lao động, thật khó để nghĩ ra một sự đáp ứng nhu cầu của con người ở mức độ lớn hơn mà không, ít nhất là trong ngắn hạn, gây tổn thất cho một số người đã đầu tư hoặc vất vả rèn luyện kỹ năng để đáp ứng chính xác nhu cầu đó. Nếu sự tiến bộ diễn ra hoàn toàn đồng đều trên mọi phương diện, thì sự xung đột giữa lợi ích của cả cộng đồng và của từng nhóm chuyên biệt sẽ không, hoặc hầu như không, trở thành vấn đề nghiêm trọng. Nếu trong cùng một năm mà sản lượng lúa mì toàn cầu tăng, sản lượng lúa mì của riêng tôi cũng tăng theo tỷ lệ tương đương; nếu sản lượng cam và tất cả các loại nông sản khác cũng tăng tương ứng, và nếu sản lượng của tất cả các mặt hàng công nghiệp đều tăng lên và chi phí sản xuất mỗi đơn vị của chúng giảm tương ứng, thì tôi với tư cách là người trồng lúa mì sẽ không bị thiệt hại vì sản lượng lúa mì tăng. Giá tôi nhận được cho mỗi giạ lúa có thể giảm. Tổng số tiền mà tôi nhận được từ vụ mùa tăng thêm của mình có thể giảm. Nhưng nếu tôi cũng có thể, nhờ nguồn cung tăng lên, mà mua được sản phẩm của mọi người khác với giá rẻ hơn, thì tôi sẽ không có lý do thực sự nào để phàn nàn. Nếu giá của mọi thứ khác đều giảm theo đúng tỷ lệ với mức giảm giá lúa mì của tôi, thì trên thực tế, tôi sẽ được lợi tương ứng theo tỷ lệ với tổng sản lượng tăng thêm của mình; và mọi người khác cũng sẽ được lợi tương ứng từ nguồn cung gia tăng của tất cả hàng hóa và dịch vụ.

Tuy nhiên, tiến bộ kinh tế chưa bao giờ và có lẽ sẽ không bao giờ xảy ra theo cách hoàn toàn đồng đều như vậy. Sự tiến bộ xảy ra lúc thì trong ngành sản xuất này, lúc thì trong ngành khác. Và nếu nguồn cung của thứ tôi góp phần sản xuất tăng đột ngột, hoặc nếu một phát minh hay khám phá mới khiến sản phẩm của tôi trở nên không còn cần thiết, thì lợi ích cho thế giới lại trở thành một thảm kịch đối với tôi và nhóm sản xuất mà tôi thuộc về.

Điều thường gây ấn tượng mạnh mẽ nhất, ngay cả với người quan sát khách quan, không phải là lợi ích lan tỏa của nguồn cung tăng thêm hay một khám phá mới, mà là sự thiệt hại tập trung. Việc mọi người có nhiều cà phê hơn với giá rẻ hơn bị bỏ qua; điều duy nhất được nhìn thấy là một số người trồng cà phê không thể sống được với mức giá thấp hơn. Sản lượng giày tăng lên với chi phí thấp hơn nhờ máy móc mới bị quên lãng; điều được chú ý là một nhóm đàn ông và phụ nữ bị mất việc làm. Việc ghi nhận hoàn cảnh khó khăn của những nhóm này là hoàn toàn đúng đắn – thực tế, điều đó là cần thiết để hiểu đầy đủ vấn đề – và cần phải có sự cảm thông, cũng như tìm cách xem liệu một phần lợi ích từ sự tiến bộ chuyên biệt đó có thể được sử dụng để giúp các nạn nhân tìm thấy một vai trò sản xuất khác hay không.

Tuy nhiên, giải pháp không bao giờ là cắt giảm nguồn cung một cách tùy tiện, ngăn chặn những phát minh hay khám phá mới, hoặc hỗ trợ những người tiếp tục thực hiện một dịch vụ đã mất giá trị. Thế nhưng, đó lại chính là điều mà thế giới đã nhiều lần tìm cách thực hiện thông qua các hàng rào thuế quan bảo hộ, việc phá hủy máy móc, đốt bỏ cà phê, cùng hàng ngàn kế hoạch hạn chế khác. Đó là học thuyết điên rồ về sự giàu có thông qua sự khan hiếm.

Thật không may, học thuyết này có thể luôn đúng trong phạm vi hẹp đối với bất kỳ nhóm nhà sản xuất cụ thể nào được xem xét một cách biệt lập – nếu họ có thể khiến thứ họ bán trở nên khan hiếm trong khi mọi thứ họ cần mua vẫn dồi dào. Nhưng đây lại là một học thuyết luôn sai nếu xét trên bình diện toàn xã hội. Nó không bao giờ có thể được áp dụng cho tất cả các nhóm. Bởi vì nếu áp dụng rộng khắp, học thuyết đó sẽ dẫn đến tự sát về kinh tế.

Và đây là bài học của chúng ta ở dạng khái quát nhất. Nhiều điều tưởng như đúng khi ta chỉ tập trung vào một nhóm kinh tế riêng lẻ hóa ra lại là ảo tưởng khi ta xem xét lợi ích của tất cả mọi người, với tư cách người tiêu dùng cũng như người sản xuất.

Nhìn nhận vấn đề như một tổng thể, chứ không phải như từng phần rời rạc: đó chính là mục tiêu của khoa học kinh tế.


Đăng ngày

trong