Kinh tế học trong một bài học. Chương 23: Cuộc tấn công vào việc tiết kiệm

Tác giả: Henry Hazlitt.

Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.

Biên dịch: Phong trào Duy Tân.

Chương 23: Cuộc tấn công vào việc tiết kiệm

1

Từ xa xưa, trí tuệ dân gian đã ca ngợi đức tính tiết kiệm và cảnh báo về hậu quả của sự hoang phí và lãng phí. Trí tuệ này không chỉ phản ánh những phán đoán dựa trên sự thận trọng, mà còn thể hiện những chuẩn mực đạo đức chung của nhân loại. Tuy vậy, những kẻ phung phí thì lúc nào cũng có, và dường như luôn có các nhà lý thuyết đứng ra biện minh cho sự phung phí của họ.

Các nhà kinh tế học cổ điển, trong khi phản bác những ngụy biện của thời đại họ, đã chứng minh rằng chính sách tiết kiệm không chỉ có lợi cho cá nhân mà còn cho cả quốc gia. Họ chỉ ra rằng người tiết kiệm hợp lý, khi lo liệu cho tương lai của chính mình, không làm tổn hại mà còn giúp ích cho cả cộng đồng. Nhưng ngày nay, đức tính tiết kiệm cổ xưa, cùng với sự bảo vệ nó của các nhà kinh tế học cổ điển, một lần nữa bị công kích, với những lý lẽ được cho là mới mẻ,trong khi học thuyết đối lập với nó cổ vũ cho việc chi tiêu nhiều hơn đang trở nên thịnh hành.

Để làm sáng tỏ vấn đề cốt lõi một cách rõ ràng nhất, tôi cho rằng không gì tốt hơn là bắt đầu bằng ví dụ kinh điển do Bastiat đưa ra. Chúng ta hãy tưởng tượng có hai anh em, một người phung phí và một người cẩn trọng, mỗi người thừa kế một khoản tài sản đem lại thu nhập 50.000 đô la mỗi năm. Chúng ta sẽ tạm bỏ qua thuế thu nhập và cả câu hỏi liệu hai người này có nên lao động để kiếm sống hay không, vì những điều đó không liên quan đến mục đích hiện tại chúng ta.

Alvin, người anh cả, là một tay tiêu tiền hoang phí. Anh ta không chỉ tiêu xài vì tính cách, mà còn vì nguyên tắc. Anh là một tông đồ (không cần nói xa hơn) của Rodbertus, người đã tuyên bố vào giữa thế kỷ 19 rằng các nhà tư bản “phải tiêu hết thu nhập của mình đến đồng xu cuối cùng cho những tiện nghi và xa xỉ phẩm,” bởi nếu họ “quyết định tiết kiệm… thì hàng hóa sẽ tích lũy, và một bộ phận công nhân sẽ không có việc làm.” Alvin thường xuyên xuất hiện tại các câu lạc bộ đêm, chi tiêu hào phóng và duy trì một lối sống xa hoa với nhiều người hầu. Anh ta sở hữu nhiều chiếc xe và có vài tài xế riêng. Anh ta giữ một chuồng đua ngựa, sở hữu một chiếc du thuyền và thường xuyên đi du lịch. Anh ta tặng vợ những chiếc vòng tay kim cương và áo khoác lông, đồng thời mua những món quà đắt tiền và vô ích cho bạn bè.

Để chi trả cho tất cả những điều đó, Alvin buộc phải đụng tới cả phần vốn của mình. Nhưng thế thì đã sao? Nếu tiết kiệm là một tội lỗi, thì không tiết kiệm ắt phải là một đức hạnh; và trong bất kỳ trường hợp nào, anh ta đơn giản chỉ đang bù đắp cho những tác hại do người em keo kiệt của mình là Benjamin gây ra thông qua việc tiết kiệm.

Không cần phải nói, Alvin là người rất được các cô giữ mũ áo, bồi bàn, chủ nhà hàng, thợ làm lông thú, thợ kim hoàn và các cửa hàng xa xỉ đủ loại yêu mến. Họ xem anh như một nhà hảo tâm của xã hội. Rõ ràng ai cũng thấy anh ta đang tạo ra công ăn việc làm và rải tiền khắp nơi.

So với Alvin, người em là Benjamin ít được yêu thích hơn nhiều. Anh hiếm khi xuất hiện ở các tiệm kim hoàn, cửa hàng lông thú hay hộp đêm, và cũng không gọi các bồi bàn chính bằng tên thân mật. Trong khi Alvin không chỉ tiêu hết toàn bộ khoản thu nhập 50.000 đô mỗi năm mà còn rút cả vào vốn, thì Benjamin lại sống giản dị hơn nhiều và chỉ chi tiêu khoảng 25.000 đô. Rõ ràng, theo suy nghĩ của những người chỉ thấy điều trước mắt, anh này đã tạo ra ít hơn một nửa số việc làm so với Alvin, và 25.000 đô còn lại thì vô dụng như thể nó không tồn tại.

Nhưng hãy xem Benjamin thật sự làm gì với 25.000 đô còn lại. Trung bình anh ấy dành 5.000 đô cho các hoạt động từ thiện, bao gồm cả việc giúp đỡ những người bạn đang gặp khó khăn. Các gia đình được nhận khoản tiền này sau đó sẽ chi số tiền đó cho nhu yếu phẩm, quần áo hoặc trả tiền thuê nhà. Vì vậy, khoản tiền này tạo ra nhiều việc làm không kém gì việc Benjamin trực tiếp tiêu tiền cho chính mình. Điểm khác biệt là nhiều người trở nên thỏa mãn hơn trong vai trò người tiêu dùng, và sản xuất được hướng nhiều hơn vào các mặt hàng thiết yếu, thay vì vào các mặt hàng xa xỉ và không cần thiết.

Điều cuối cùng này thường khiến Benjamin băn khoăn. Lương tâm anh đôi khi còn ray rứt cả về khoản 25.000 đô mà anh ấy chi tiêu. Anh nghĩ rằng kiểu phô trương thô thiển và tiêu xài bừa bãi mà Alvin đang hưởng thụ không chỉ khơi dậy sự bất mãn và đố kỵ ở những người đang vật lộn để mưu sinh, mà còn thật sự làm tăng thêm khó khăn cho họ. Ở bất kỳ thời điểm nào, theo Benjamin, năng lực sản xuất thực tế của quốc gia đều có hạn. Càng có nhiều năng lực sản xuất bị chuyển hướng sang việc tạo ra các thứ phù phiếm và xa xỉ, thì càng ít năng lực còn lại để sản xuất những thứ thiết yếu cho những người đang cần chúng. Anh cho rằng càng ít rút ra từ kho của cải hiện có để phục vụ cho bản thân, thì càng để lại nhiều hơn cho người khác. Anh cảm thấy việc tiêu dùng một cách thận trọng có thể giảm bớt các vấn đề do bất bình đẳng về của cải và thu nhập gây ra. Anh cũng hiểu rằng sự tiết chế này có thể bị đẩy đi quá xa; nhưng anh tin rằng ai có thu nhập cao hơn đáng kể so với mức trung bình thì đều nên có ít nhiều sự tiết chế trong tiêu dùng.

Giờ hãy tạm gác lại quan điểm của Benjamin và xem điều gì xảy ra với 20.000 đô la mà anh ấy không tiêu xài cũng không cho đi. Anh ấy không để số tiền đó chất đống trong ví, trong ngăn kéo hay trong két sắt. Anh hoặc gửi nó vào ngân hàng, hoặc đem đi đầu tư. Nếu anh gửi vào ngân hàng thương mại hoặc ngân hàng tiết kiệm, thì ngân hàng sẽ hoặc cho các doanh nghiệp đang hoạt động vay ngắn hạn để làm vốn lưu động, hoặc sử dụng để mua chứng khoán. Nói cách khác, Benjamin đầu tư tiền của mình trực tiếp hoặc gián tiếp. Mà khi tiền được đầu tư, nó được dùng để mua tư liệu sản xuất – nhà ở, tòa nhà văn phòng, nhà máy, tàu thuyền, xe tải hoặc máy móc. Bất kỳ dự án nào trong số này đều đưa một lượng tiền vào lưu thông và tạo ra số việc làm nhiều tương đương với cùng một số tiền được chi trực tiếp cho tiêu dùng.

Tóm lại, trong thế giới hiện đại, “tiết kiệm” chỉ là một hình thức khác của tiêu dùng. Khác biệt thường thấy là tiền được chuyển giao cho người khác để chi tiêu vào những phương tiện nhằm gia tăng sản xuất. Về mặt tạo việc làm, sự kết hợp giữa “tiết kiệm” và tiêu dùng của Benjamin đem lại kết quả không kém gì việc chi tiêu của riêng Alvin, và cũng đưa vào lưu thông một lượng tiền tương đương. Sự khác biệt chính là việc làm do chi tiêu của Alvin tạo ra thì ai cũng có thể nhìn thấy ngay; còn để nhận ra rằng mỗi đô la mà Benjamin tiết kiệm tạo ra lượng việc làm tương đương với mỗi đô la mà Alvin vung vãi, thì cần quan sát kỹ hơn một chút và suy nghĩ lâu hơn một chút.

Mười hai năm trôi qua. Alvin đã trắng tay. Anh không còn xuất hiện ở các hộp đêm hay những cửa hàng thời thượng nữa; và những người từng được anh chiếu cố khi xưa giờ nhắc đến anh như một kẻ ngốc. Anh viết thư cầu xin Benjamin giúp đỡ. Trong khi đó, Benjamin vẫn duy trì tỷ lệ chi tiêu và tiết kiệm như cũ, nhưng lại tạo ra nhiều việc làm hơn bao giờ hết, bởi thu nhập của anh đã tăng lên nhờ đầu tư. Tài sản vốn của anh cũng lớn hơn. Hơn nữa, nhờ các khoản đầu tư của anh, của cải và thu nhập của quốc gia cũng tăng lên; có thêm nhiều nhà máy và sản lượng cũng cao hơn.

2

Trong những năm gần đây, đã xuất hiện quá nhiều ngụy biện xoay quanh vấn đề tiết kiệm đến mức ví dụ về hai anh em chúng ta vừa nêu không thể trả lời hết được. Do đó, cần phải dành thêm một phần nữa để bàn về chúng. Nhiều ngụy biện bắt nguồn từ những nhầm lẫn cơ bản đến mức khó tin, đặc biệt là khi chúng được tìm thấy trong các tác phẩm của những nhà kinh tế học danh tiếng. Ví dụ, từ “tiết kiệm” đôi khi được dùng để chỉ việc tích trữ tiền bạc đơn thuần, và đôi khi lại được dùng để chỉ việc đầu tư, mà không có sự phân biệt rõ ràng và nhất quán giữa hai cách dùng ấy.

Việc tích trữ tiền mặt đơn thuần, nếu nó xảy ra một cách phi lý, vô cớ và trên quy mô lớn, thường là có hại trong hầu hết các tình huống kinh tế. Nhưng kiểu tích trữ như vậy cực kỳ hiếm. Một hiện tượng trông có vẻ giống như thế, nhưng cần được phân biệt cẩn thận, thường xảy ra sau khi một đợt suy thoái kinh tế bắt đầu. Khi đó, cả tiêu dùng lẫn đầu tư đều bị thu hẹp. Người tiêu dùng cắt giảm việc mua sắm. Họ làm vậy một phần vì họ sợ mất việc và muốn bảo toàn nguồn lực của mình: họ cắt giảm mua sắm không phải vì muốn tiêu dùng ít đi, mà vì muốn đảm bảo rằng sức mua của họ có thể kéo dài trong một khoảng thời gian lâu hơn trong trường hợp thất nghiệp.

Nhưng người tiêu dùng còn cắt giảm chi tiêu vì một lý do khác. Giá hàng hóa có thể đã giảm, và họ lo sợ giá sẽ tiếp tục giảm. Nếu trì hoãn chi tiêu, họ tin rằng sẽ có thể mua được nhiều hơn với cùng số tiền của mình. Họ không muốn giữ tài sản dưới dạng hàng hóa đang giảm giá trị, mà thay vào đó là tiền tệ, thứ mà họ kỳ vọng sẽ tăng giá trị trong tương lai.

Chính kỳ vọng đó cũng ngăn cản họ đầu tư. Họ đã mất niềm tin vào khả năng sinh lời của các doanh nghiệp; hoặc ít nhất là họ tin rằng nếu chờ thêm vài tháng nữa, họ sẽ có thể mua được cổ phiếu hoặc trái phiếu với giá rẻ hơn. Chúng ta có thể xem họ hoặc là đang từ chối nắm giữ những hàng hóa có thể mất giá, hoặc là đang giữ tiền để chờ giá trị của nó tăng lên.

Gọi sự từ chối mua sắm tạm thời này là “tiết kiệm” là hoàn toàn sai. Nó không xuất phát từ cùng động cơ như việc tiết kiệm thông thường. Và càng sai lầm nghiêm trọng hơn khi nói rằng kiểu “tiết kiệm” này là nguyên nhân gây ra suy thoái. Ngược lại, nó là hệ quả của suy thoái.

Đúng là sự từ chối tiêu dùng này có thể làm trầm trọng thêm và kéo dài suy thoái một khi nó đã bắt đầu. Nhưng bản thân nó không phải là nguồn gốc của suy thoái. Trong những thời kỳ mà chính phủ can thiệp tùy tiện vào hoạt động kinh doanh, và doanh nghiệp không thể biết được chính phủ sẽ làm gì tiếp theo, thì sự bất ổn được tạo ra. Lợi nhuận không được tái đầu tư. Các công ty và cá nhân để số dư tiền mặt tích lũy trong ngân hàng. Họ giữ các khoản dự trữ lớn hơn để phòng ngừa rủi ro. Việc tích trữ tiền mặt này có vẻ như là nguyên nhân gây ra sự chững lại trong hoạt động kinh doanh sau đó. Tuy nhiên, nguyên nhân thực sự là sự bất ổn do các chính sách của chính phủ gây ra. Việc các doanh nghiệp và cá nhân giữ số dư tiền mặt lớn hơn chỉ là một mắt xích trong chuỗi hậu quả từ sự bất ổn đó. Đổ lỗi cho “tiết kiệm quá mức” về sự suy giảm của nền kinh tế chẳng khác nào đổ lỗi cho việc giá táo giảm không phải vì vụ mùa bội thu mà là vì những người từ chối trả giá cao hơn cho táo.

Nhưng một khi người ta đã quyết định chế giễu một hành vi hay một thể chế nào đó, thì bất kỳ lập luận nào chống lại nó, dù phi lý đến đâu, đều được coi là đủ tốt. Người ta nói rằng các ngành sản xuất hàng tiêu dùng khác nhau được xây dựng dựa trên kỳ vọng về một mức cầu nhất định, và nếu mọi người tiết kiệm thì họ sẽ làm tiêu tan kỳ vọng đó và gây ra suy thoái. Lập luận này chủ yếu dựa trên sai lầm mà chúng ta đã phân tích – đó là quên rằng số tiền không chi cho hàng tiêu dùng thì sẽ được chi cho hàng hóa vốn, và rằng “tiết kiệm” không nhất thiết đồng nghĩa với việc tổng chi tiêu giảm đi dù chỉ một đô la. Yếu tố duy nhất đúng trong lập luận này là bất kỳ thay đổi đột ngột nào cũng có thể gây bất ổn. Nếu người tiêu dùng đột nhiên chuyển nhu cầu từ loại hàng tiêu dùng này sang loại khác thì cũng sẽ gây bất ổn như vậy. Và sẽ còn bất ổn hơn nữa nếu những người trước đây tiết kiệm đột nhiên chuyển nhu cầu của họ từ tư liệu sản xuất sang hàng tiêu dùng.

Lại có một phản đối khác đối với việc tiết kiệm. Người ta cho rằng điều đó hoàn toàn ngớ ngẩn. Thế kỷ XIX bị chế giễu vì bị cho là đã truyền bá học thuyết rằng nhân loại nên tiếp tục tiết kiệm để tạo ra một chiếc bánh ngày càng lớn hơn mà không bao giờ ăn chiếc bánh đó. Bản thân bức tranh về quá trình ấy thật là ngây thơ và trẻ con. Có lẽ cách tốt nhất để bác bỏ nó là đặt ra trước mắt chúng ta một bức tranh thực tế hơn về những gì thực sự diễn ra.

Hãy hình dung một quốc gia nhìn chung tiết kiệm mỗi năm khoảng 20% tổng sản lượng trong năm đó. Con số này đã phóng đại rất nhiều so với mức tiết kiệm ròng từng xảy ra trong lịch sử Hoa Kỳ, nhưng đây là một con số tròn dễ tính toán và mang lại lợi thế cho những ai tin rằng chúng ta đã “tiết kiệm quá mức.”

Bây giờ, kết quả của việc tiết kiệm và đầu tư hàng năm như vậy là tổng sản lượng hàng năm của quốc gia sẽ tăng lên mỗi năm. (Để đơn giản hóa vấn đề, chúng ta tạm thời bỏ qua các yếu tố như bùng nổ, suy thoái hay các biến động khác.) Giả sử mức tăng sản lượng hàng năm này là 2,5 điểm phần trăm. (Ta dùng điểm phần trăm thay vì tỷ lệ phần trăm lũy kế để làm cho phép tính đơn giản hơn.) 

Khi đó, bức tranh mà chúng ta có được trong khoảng thời gian mười một năm, chẳng hạn, sẽ trông như sau nếu biểu thị bằng các chỉ số:

NămTổng sản lượngHàng tiêu dùng được sản xuấtHàng hóa tư bản được sản xuất
Năm 11008020*
Năm 2102.58220.5
Năm 31058421
Năm 4107.58621.5
Năm 51108822
Năm 6112.59022.5
Năm 71159223
Năm 8117.59423.5
Năm 91209624
Năm 10122.59824.5
Năm 1112510025

*Tất nhiên, điều này giả định rằng quá trình tiết kiệm và đầu tư đã diễn ra từ trước với cùng tốc độ.

Điều đầu tiên cần lưu ý từ bảng này là tổng sản lượng tăng lên qua từng năm nhờ vào tiết kiệm; nếu không có tiết kiệm, sản lượng sẽ không thể tăng.


Mặc dù có thể cho rằng các cải tiến kỹ thuật hoặc phát minh mới có thể giúp nâng cao năng suất ngay cả khi chỉ thay thế những máy móc cũ có giá trị tương đương, song mức tăng này sẽ rất nhỏ. Hơn nữa, những cải tiến đó vẫn đòi hỏi một lượng đầu tư ban đầu đủ lớn để tạo ra hệ thống máy móc hiện có.

Khoản tiết kiệm hằng năm được sử dụng để gia tăng số lượng hoặc nâng cao chất lượng của máy móc, từ đó mở rộng sản lượng hàng hóa của quốc gia. Do đó, “chiếc bánh” – ẩn dụ cho tổng sản lượng hàng hóa – trở nên lớn hơn mỗi năm.

Thật vậy, không phải toàn bộ lượng hàng hóa được sản xuất trong mỗi năm đều được tiêu dùng (một phần được tiết kiệm và đầu tư). Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là người tiêu dùng hành động một cách phi lý hoặc rằng mức độ tiêu dùng bị hạn chế dần theo thời gian. 

Thực tế, lượng hàng hóa tiêu dùng mỗi năm đều cao hơn năm trước. Sau mười một năm, lượng hàng hóa được tiêu dùng hằng năm đã tương đương với tổng lượng tiêu dùng và đầu tư của năm đầu tiên. Ngoài ra, năng lực sản xuất của quốc gia – tức là vốn thiết bị và cơ sở vật chất – đã tăng thêm 25% so với năm đầu tiên.

Hãy cùng xem xét một vài điểm khác. Việc 20% thu nhập quốc dân được tiết kiệm mỗi năm không gây ảnh hưởng tiêu cực đến các ngành sản xuất hàng tiêu dùng. Nếu họ chỉ bán 80 đơn vị hàng hóa sản xuất trong năm đầu tiên (và giá cả không tăng do nhu cầu chưa được đáp ứng), họ chắc chắn sẽ không lập kế hoạch sản xuất dựa trên giả định rằng họ sẽ bán được 100 đơn vị trong năm thứ hai. Nói cách khác, các ngành sản xuất hàng tiêu dùng đã dự tính rằng tỷ lệ tiết kiệm trong quá khứ sẽ tiếp tục duy trì. Chỉ một sự gia tăng đột ngột và đáng kể trong mức tiết kiệm mới có thể làm xáo trộn tình hình và khiến họ không bán được hàng. 

Như đã đề cập trước đó, một sự giảm đột ngột và đáng kể trong mức tiết kiệm sẽ gây ra những vấn đề tương tự cho các ngành làm ra tư liệu sản xuất. Nếu số tiền mà trước đây được dùng để tiết kiệm được đổ vào để mua hàng tiêu dùng thì điều này sẽ không làm tăng việc làm mà chỉ dẫn đến sự tăng giá của hàng tiêu dùng và giảm giá tư liệu sản xuất. Tác động ngay lập tức của nó đối với nền kinh tế sẽ là sự dịch chuyển việc làm và tạm thời làm giảm việc làm trong các ngành làm ra tư liệu sản xuất. Về lâu dài, điều này sẽ dẫn đến mức sản xuất thấp hơn so với mức có thể đạt được nếu không có sự thay đổi này.

3

Nhưng những kẻ chống đối tiết kiệm vẫn chưa dừng lại. Họ bắt đầu bằng việc đưa ra sự phân biệt, điều này khá hợp lý, giữa “tiết kiệm” và “đầu tư.” Nhưng sau đó, họ lại nói như thể hai khái niệm này là những biến số hoàn toàn độc lập, và việc chúng bằng nhau chỉ là một sự tình cờ. Những cây bút này vẽ nên một bức tranh đáng sợ. Một bên là những người tiết kiệm cứ tiếp tục tiết kiệm một cách máy móc, vô ích, ngu ngốc; bên kia là những “cơ hội đầu tư” bị giới hạn, không thể hấp thụ được lượng tiết kiệm đó. Hậu quả, than ôi, là sự trì trệ. Họ tuyên bố rằng giải pháp duy nhất là chính phủ phải tịch thu những khoản tiết kiệm ngu xuẩn và có hại này, rồi tự nghĩ ra các dự án của mình, ngay cả khi đó chỉ là những con mương vô dụng hay những kim tự tháp vô tích sự, để tiêu hết số tiền đó và tạo ra việc làm.

Có rất nhiều sai lầm trong quan điểm và “giải pháp” này, nhưng ở đây chỉ có thể chỉ ra một vài ngộ nhận chính. Lượng “tiết kiệm” chỉ có thể vượt quá “đầu tư” trong trường hợp tiền được rút khỏi lưu thông — tức là khi có hành vi tích trữ tiền mặt. Trong các xã hội công nghiệp hiện đại như Hoa Kỳ, rất ít người còn cất giữ tiền xu hay tiền giấy trong tất hoặc dưới nệm. Ngay cả khi điều này xảy ra, các kế hoạch sản xuất của doanh nghiệp và mức giá chung đã phần nào phản ánh yếu tố đó. Hơn nữa, việc tích trữ tiền mặt thường không mang tính tích lũy lâu dài, vì khi những người có thói quen này qua đời và lượng tiền tích trữ được phát hiện rồi được chi tiêu trở lại, quá trình này phần nào bù đắp cho lượng tiền vừa mới bị tích trữ lại. Thực tế, tổng số tiền mặt bị tích trữ là rất nhỏ và hầu như không có ảnh hưởng đáng kể đến hoạt động kinh tế.

Khi tiền được giữ trong các ngân hàng tiết kiệm hoặc ngân hàng thương mại, như đã thấy, các ngân hàng luôn muốn cho vay và đầu tư số tiền đó. Họ không thể để vốn nhàn rỗi. Nguyên nhân duy nhất khiến người dân tăng cường tích trữ tiền mặt, hoặc khiến các ngân hàng giữ tiền nhàn rỗi và mất lãi, là khi có lo ngại rằng giá hàng hóa sẽ giảm hoặc các ngân hàng lo ngại rằng họ sẽ phải đối mặt với quá nhiều rủi ro đối với vốn của mình. Tuy nhiên, điều này cho thấy rằng các dấu hiệu của một cuộc suy thoái đã xuất hiện, dẫn đến việc tích trữ tiền, thay vì việc tích trữ tiền là nguyên nhân gây ra suy thoái.

Ngoài việc tích trữ tiền mặt không đáng kể (thậm chí có thể coi đây là một dạng “đầu tư” vào chính tiền tệ), “tiết kiệm” và “đầu tư” được cân bằng với nhau theo cách tương tự như việc cung và cầu của bất kỳ hàng hóa nào được cân bằng. Chúng ta có thể định nghĩa “tiết kiệm” là nguồn cung cấp vốn mới và “đầu tư” là cầu đối với vốn đó. Giống như việc cung và cầu của các hàng hóa khác được cân bằng qua giá cả, cung và cầu về vốn cũng được cân bằng qua lãi suất. Lãi suất chỉ đơn giản là tên gọi đặc biệt cho giá của vốn vay, giống như bất kỳ loại giá nào khác.

Chủ đề này đã trở nên vô cùng rối rắm trong những năm gần đây, do những lập luận phức tạp và các chính sách chính phủ tai hại dựa trên những lập luận đó, đến mức gần như không thể quay lại với lý trí và sự hợp lý. Có một nỗi sợ tâm lý về lãi suất “quá cao”. Người ta cho rằng nếu lãi suất quá cao, ngành công nghiệp sẽ không có lợi khi vay mượn và đầu tư vào các nhà máy và máy móc mới. Lập luận này đã có sức thuyết phục mạnh mẽ đến nỗi các chính phủ trên khắp thế giới trong những thập kỷ qua đã theo đuổi các chính sách “tiền rẻ” giả tạo. Tuy nhiên, lập luận này chỉ tập trung vào việc gia tăng cầu đối với vốn mà bỏ qua tác động của các chính sách này đối với nguồn cung vốn. Đây lại là một ví dụ nữa về sai lầm khi chỉ xét đến tác động của một chính sách đối với một nhóm đối tượng mà quên đi tác động đối với nhóm đối tượng khác.

Nếu lãi suất được duy trì quá thấp so với mức độ rủi ro, thì tiền sẽ không được tiết kiệm hay cho vay. Những người ủng hộ chính sách tiền rẻ tin rằng việc tiết kiệm diễn ra tự động, bất kể lãi suất là bao nhiêu, vì những người giàu có không còn gì khác để làm với tiền của họ. Tuy nhiên, họ không giải thích rõ ràng rằng ở mức thu nhập cá nhân nào thì một người sẽ tiết kiệm một lượng tiền cố định, bất kể lãi suất hay mức độ rủi ro khi cho vay. Thực tế là, mặc dù thói quen tiết kiệm của những người rất giàu có có thể ít bị ảnh hưởng hơn so với những người có thu nhập trung bình khi lãi suất thay đổi, nhưng hầu hết mọi người đều bị ảnh hưởng với một mức độ nào đó. Việc lập luận rằng sự giảm mạnh lãi suất sẽ không làm giảm lượng tiết kiệm thực tế là một lập luận sai lầm, tương tự như việc cho rằng sản lượng đường sẽ không giảm nếu giá của nó giảm mạnh, vì những nhà sản xuất hiệu quả và có chi phí thấp vẫn sẽ sản xuất như trước. Lập luận này bỏ qua những người tiết kiệm biên và thực tế là phần lớn những người tiết kiệm.

Việc duy trì lãi suất ở mức thấp một cách giả tạo thực chất có tác động tương tự như việc giữ bất kỳ mức giá nào thấp hơn giá trị thị trường tự nhiên của nó: nó làm tăng nhu cầu nhưng lại làm giảm nguồn cung. Trong trường hợp này, nhu cầu về vốn tăng lên trong khi lượng vốn thực tế sẵn có lại giảm, dẫn đến tình trạng khan hiếm và méo mó trong cơ cấu kinh tế.

Mặc dù việc hạ lãi suất nhân tạo có thể khuyến khích hoạt động vay mượn, song nó cũng thúc đẩy các dự án đầu cơ rủi ro cao — những dự án chỉ có thể tồn tại trong các điều kiện nhân tạo đã tạo ra chúng. Ở chiều ngược lại, việc hạ lãi suất một cách phi tự nhiên làm giảm động lực tiết kiệm, dẫn đến sự thiếu hụt tương đối về vốn thực.

Tỷ lệ lãi suất chỉ có thể được duy trì ở mức thấp một cách giả tạo nếu liên tục có các đợt bơm thêm tiền tệ hoặc tín dụng ngân hàng thay vì dựa vào nguồn tiết kiệm thực. Điều này tạo ra ảo tưởng rằng lượng vốn tăng lên, tương tự như việc pha thêm nước khiến sữa có vẻ nhiều hơn. Tuy nhiên, đây là một chính sách lạm phát kéo dài và tiềm ẩn nguy cơ tích lũy ngày càng lớn. Khi quá trình lạm phát bị đảo ngược, bị ngừng lại hoặc chỉ giảm tốc, lãi suất tiền tệ sẽ tăng và khủng hoảng có thể xảy ra. Nói cách khác, chính sách duy trì “tiền rẻ” cuối cùng sẽ gây ra những biến động kinh tế dữ dội hơn nhiều so với những gì nó nhằm khắc phục hoặc ngăn ngừa.

Ngược lại, nếu chính phủ không can thiệp vào lãi suất thông qua các biện pháp lạm phát, thì việc gia tăng tiết kiệm sẽ tự nhiên làm giảm lãi suất. Khi nguồn tiết kiệm tăng, lượng vốn sẵn có để đầu tư lớn hơn sẽ buộc người gửi tiền chấp nhận mức lãi thấp hơn. Mức lãi suất thấp hơn đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp vay vốn, vì lợi nhuận kỳ vọng từ các máy móc hoặc nhà xưởng mới mà họ đầu tư bằng khoản vay này có khả năng vượt quá chi phí vay vốn.

4

Chúng ta đến với ngộ nhận cuối cùng về tiết kiệm mà tôi muốn đề cập. Đó là giả định phổ biến rằng có một giới hạn cố định đối với lượng vốn mới có thể được hấp thụ, hoặc thậm chí rằng sự mở rộng vốn đã đạt đến giới hạn. Thật khó tin là quan điểm này tồn tại, đặc biệt là ở những nhà kinh tế học đã qua đào tạo. Gần như toàn bộ sự giàu có của thế giới hiện đại, và mọi thứ phân biệt nó với thế giới tiền công nghiệp của thế kỷ 17, đều bắt nguồn từ vốn tích lũy của nó.

Một phần của tư bản này bao gồm những thứ mà ta gọi là hàng hoá tiêu dùng bền lâu, như xe hơi, tủ lạnh, đồ nội thất, trường học, đại học, nhà thờ, thư viện, bệnh viện và đặc biệt là nhà riêng. Trong suốt lịch sử thế giới, chưa bao giờ có đủ những thứ này. Do Chiến tranh Thế giới thứ Hai diễn ra mà việc xây dựng đã bị hoãn lại và sự tàn phá đã diễn ra, ngày nay tình trạng thiếu hụt vẫn còn trầm trọng. Nhưng ngay cả khi đã có đủ số lượng nhà — nếu chúng ta chỉ xem xét dưới góc độ về số lượng — thì việc cải thiện chất lượng những ngôi nhà là điều luôn có thể và đáng mong muốn, không có những giới hạn rõ ràng, ngoại trừ những căn nhà tốt nhất. 

Phần thứ hai của tư bản là cái mà ta có thể gọi là tư bản đúng nghĩa. Nó bao gồm các công cụ sản xuất, từ những thứ thô sơ nhất như rìu, dao hay cày cho đến những công cụ máy móc tinh xảo nhất, những máy phát điện hay máy gia tốc cyclotron lớn nhất, hoặc những nhà máy được trang bị hiện đại nhất. Ngay cả ở đây, về mặt số lượng và đặc biệt là chất lượng, không có giới hạn nào cho sự mở rộng, nếu sự mở rộng đó có thể đạt được và cần thiết. Sẽ không có “thặng dư” tư bản cho đến khi quốc gia lạc hậu nhất được trang bị công nghệ ngang bằng với quốc gia tiên tiến nhất, cho đến khi nhà máy kém hiệu quả nhất ở Mỹ được nâng cấp ngang hàng với nhà máy sở hữu thiết bị hiện đại và tinh vi nhất, và cho đến khi các công cụ sản xuất hiện đại nhất đạt đến điểm mà óc sáng tạo của con người không còn khả năng cải tiến thêm nữa. Chừng nào một trong những điều kiện đó còn chưa được đáp ứng, thì vẫn còn không gian vô hạn cho việc tích lũy thêm tư bản.


Nhưng làm thế nào để lượng tư bản bổ sung này có thể được “hấp thụ” hay “thanh toán”? Nếu nó được tiết kiệm và đầu tư, nó sẽ tự “hấp thụ” và tự “thanh toán”. Các nhà sản xuất đầu tư vào các tư liệu sản xuất mới—tức là họ mua các công cụ mới, tốt hơn và tinh vi hơn—vì những công cụ này làm giảm chi phí sản xuất. Chúng hoặc tạo ra những hàng hóa mà lao động chân tay không thể sản xuất được (và điều này hiện nay áp dụng cho hầu hết các hàng hóa xung quanh chúng ta—sách, máy đánh chữ, xe hơi, đầu máy xe lửa, cầu treo); hoặc chúng cho phép sản xuất các hàng hóa đó với số lượng lớn hơn; hoặc (nói một cách khác) chúng giảm chi phí sản xuất mỗi đơn vị hàng hóa. Và vì không có giới hạn rõ ràng về mức độ mà chi phí sản xuất có thể giảm được—cho đến khi mọi thứ có thể được sản xuất mà không tốn bất kỳ chi phí nào—nên cũng không có giới hạn về lượng vốn mới có thể được hấp thụ. 

Việc giảm đều đặn chi phí sản xuất mỗi đơn vị thông qua việc bổ sung tư bản mới sẽ thực hiện một trong hai điều này, hoặc cả hai. Nó làm giảm chi phí hàng hóa đối với người tiêu dùng và tăng tiền lương của lao động sử dụng các máy móc mới vì nó tăng năng suất lao động của họ. Do đó, một máy móc mới có lợi cho cả những người làm việc trực tiếp trên nó và cho số đông người tiêu dùng. Đối với người tiêu dùng, ta có thể nói rằng nó cung cấp cho họ nhiều hàng hóa tốt hơn với số tiền tương đương, hoặc, nói cách khác, nó làm tăng thu nhập thực tế của họ. Đối với những công nhân sử dụng các máy móc mới, nó tăng lương thực tế của họ theo hai cách, cả về tiền lương lẫn năng suất lao động. Một ví dụ điển hình là ngành công nghiệp xe hơi. Ngành công nghiệp xe hơi Mỹ trả lương cao nhất thế giới, và cũng là một trong những mức lương cao nhất ngay cả ở Mỹ. Tuy nhiên, các nhà sản xuất xe hơi Mỹ vẫn có thể bán xe với giá thấp hơn so với phần còn lại của thế giới vì chi phí sản xuất của họ thấp hơn. Bí quyết là tư bản được sử dụng trong việc sản xuất xe hơi Mỹ lớn hơn nhiều so với mỗi công nhân và mỗi chiếc xe so với bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.

Tuy nhiên, vẫn có những người nghĩ rằng chúng ta đã đạt đến điểm cuối của quá trình này, và còn có những người khác nghĩ rằng ngay cả khi chúng ta chưa đạt đến điểm cuối, thế giới vẫn thật ngu ngốc khi tiếp tục tiết kiệm và tăng thêm tư bản.

Sau phân tích này, sẽ không khó để quyết định ai mới là người thực sự ngu ngốc.


Đăng ngày

trong