Luận cương Liên bang số 83: Tiếp tục về nhánh tư pháp liên quan đến xét xử bằng bồi thẩm đoàn

Dịch và giới thiệu: Nguyễn Huy Vũ.

Giới thiệu:

Trong Luận cương Liên bang số 83, Alexander Hamilton bàn về vai trò của bồi thẩm đoàn trong các vụ xét xử. Hiến pháp quy định việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn là bắt buộc đối với các vụ hình sự, nhưng không nói gì đến các vụ dân sự. Một số người chỉ trích cho rằng việc Hiến pháp không quy định việc xét xử các vụ dân sự bằng bồi thẩm đoàn đồng nghĩa với việc xoá bỏ vai trò của bồi thẩm đoàn trong các vụ dân sự.

Hamilton bác bỏ chỉ trích này và cho rằng việc Hiến pháp im lặng về vấn đề này không có nghĩa là xoá bỏ vai trò của bồi thẩm đoàn trong các vụ dân sự. Mà điều này hàm ý rằng Hiến pháp để Quốc hội giữ quyền quyết định sử dụng bồi thẩm đoàn trong các vụ dân sự, điều này khác với yêu cầu bắt buộc dùng bồi thẩm đoàn cho tất cả các vụ hình sự. Ông cho rằng bồi thẩm đoàn có giá trị trong việc ngăn ngừa tham nhũng, nhưng nó không thiết yếu trong việc bảo vệ được sự tự do trong vụ dân sự. Và một điểm phức tạp nữa đó là sự đa dạng trong hệ thống tư pháp của các bang khiến cho việc áp dụng một quy tắc bồi thẩm đoàn chung cho cả nước là điều bất khả thi. 

Bản dịch: 

Luận cương Liên bang số 83: Tiếp tục về nhánh tư pháp liên quan đến xét xử bằng bồi thẩm đoàn.

Từ Ấn bản McLEAN, New York.

Tác giả: Alexander Hamilton.

Kính Gửi Nhân Dân Bang New York:

Lý lẽ phản đối đối với kế hoạch hội nghị, vốn đã thu hút được sự đồng thuận mạnh mẽ nhất tại bang này và có thể ở một số bang khác, chủ yếu xoay quanh việc Hiến pháp thiếu một điều khoản bảo vệ quyền xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự. Cách thức phản đối này, thường xuyên được trình bày một cách thiếu trung thực, đã nhiều lần bị chỉ trích và làm rõ, nhưng vẫn tiếp tục xuất hiện trong các cuộc thảo luận và bài viết của những người phản đối kế hoạch. Việc Hiến pháp không đề cập đến quyền xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự thường bị hiểu sai là sự bãi bỏ hoàn toàn quyền này, và những luận điệu xuất phát từ sự im lặng này được thiết kế một cách khéo léo nhằm thuyết phục công chúng rằng việc bãi bỏ này không chỉ áp dụng trong các vụ án dân sự mà còn mở rộng ra cả các vụ án hình sự. Tuy nhiên, việc tranh luận liên quan đến các vụ án hình sự là hoàn toàn vô ích, giống như việc cố gắng chứng minh sự tồn tại của vật chất, hay chứng minh những chân lý vốn đã hiển nhiên qua bản chất khi được diễn đạt một cách rõ ràng. 

Liên quan đến các vụ án dân sự, những lập luận mơ hồ đến mức không đáng để phản bác đã được đưa ra để hỗ trợ giả thuyết rằng một điều gì đó chỉ vì không được quy định rõ ràng trong Hiến pháp, thì đồng nghĩa với việc nó đã bị bãi bỏ hoàn toàn. Mọi người có khả năng phán đoán đều dễ dàng nhận thấy sự khác biệt sâu sắc giữa sự IM LẶNG và sự BÃI BỎ. Tuy nhiên, vì những người phát tán sai lầm này đã cố gắng bảo vệ quan điểm của mình bằng cách vận dụng một số nguyên lý pháp lý mà họ đã hiểu sai, việc xem xét kỹ lưỡng cơ sở lý luận của họ có thể không phải là không có giá trị.

Các nguyên tắc mà họ dựa vào mang tính chất như sau: “Việc nêu rõ các chi tiết cụ thể hàm ý loại trừ các yếu tố tổng quát” hoặc “Việc đề cập đến một yếu tố cụ thể đồng nghĩa với sự loại bỏ các yếu tố khác.” Do đó, họ lập luận rằng, bởi Hiến pháp quy định xét xử bằng bồi thẩm đoàn đối với các vụ án hình sự nhưng giữ im lặng về các vụ án dân sự, sự im lặng này ngầm biểu thị việc cấm sử dụng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự.

Các nguyên tắc giải thích pháp luật là những quy tắc dựa trên lẽ thường, được các tòa án áp dụng để diễn giải ý nghĩa của các đạo luật. Vì vậy, tiêu chí để đánh giá rằng liệu các nguyên tắc này có được áp dụng đúng đắn hay không là phải xem ở mức độ mà chúng phù hợp với nguồn gốc và ý định ban đầu. Xuất phát từ tiền đề này, có thể đặt câu hỏi liệu có hợp lý theo lẽ thường khi cho rằng một quy định bắt buộc cơ quan lập pháp sử dụng bồi thẩm đoàn trong các vụ án hình sự lại hàm ý tước bỏ quyền của cơ quan này trong việc cho phép hoặc áp dụng phương thức xét xử đó đối với các vụ án khác? 

Liệu có hợp lý không khi cho rằng một lệnh yêu cầu làm một việc lại đồng thời mang nghĩa là sự cấm đoán việc làm một việc khác — đặc biệt là khi trước đó quyền lực đã cho phép làm việc đó, và nó không mâu thuẫn với việc được yêu cầu làm? Nếu giả định này là không tự nhiên và vô lý, thì không thể hợp lý để cho rằng việc yêu cầu xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong một số trường hợp lại đồng nghĩa với việc cấm đoán nó trong các trường hợp khác.

Quyền thành lập tòa án đồng nghĩa với quyền quy định phương thức xét xử; do đó, nếu Hiến pháp không đề cập đến việc sử dụng bồi thẩm đoàn, thì quyền lập pháp có thể tự do lựa chọn áp dụng hoặc bỏ qua hình thức này. Quyền tự quyết này đối với các vụ án hình sự bị hạn chế bởi yêu cầu rõ ràng về việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong tất cả các vụ án như vậy; nhưng đối với các vụ án dân sự, quyền này hoàn toàn không bị ràng buộc vì Hiến pháp không đề cập gì đến vấn đề này. Việc quy định nghĩa vụ xét xử tất cả các vụ án hình sự theo một phương thức cụ thể thực sự loại trừ nghĩa vụ hoặc sự cần thiết phải sử dụng phương thức này trong các vụ án dân sự, nhưng không hề hạn chế quyền lực của cơ quan lập pháp trong việc áp dụng phương thức này nếu họ cho rằng điều đó là phù hợp. Do đó, giả thuyết cho rằng cơ quan lập pháp quốc gia không có quyền hoàn toàn trong việc giao phó tất cả các vụ án dân sự thuộc thẩm quyền liên bang cho bồi thẩm đoàn là một giả thuyết thiếu cơ sở hợp lý.

Từ những phân tích này, có thể đưa ra kết luận rằng việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự sẽ không bị bãi bỏ. Việc áp dụng các nguyên tắc được trích dẫn theo cách mà một số người đang sử dụng là không hợp lý và trái với lẽ thường, do đó không thể chấp nhận được. Ngay cả khi các nguyên tắc này mang một ý nghĩa kỹ thuật chính xác, phù hợp với quan điểm của những người sử dụng chúng trong trường hợp hiện tại—điều vốn không đúng thực tế—chúng vẫn không thể áp dụng cho việc diễn giải một hiến pháp của chính phủ. Trong các vấn đề như vậy, ý nghĩa tự nhiên và rõ ràng của các quy định trong hiến pháp, tách biệt khỏi các quy tắc kỹ thuật, là tiêu chí xác thực để diễn giải.

Sau khi nhận thấy rằng các nguyên tắc được viện dẫn đã bị sử dụng sai mục đích, chúng ta hãy nỗ lực xác định ý nghĩa thực sự và cách sử dụng đúng đắn của chúng. Cách hiệu quả nhất để thực hiện điều này là thông qua các ví dụ. Kế hoạch của hội nghị lập hiến quy định rằng quyền hạn của Quốc hội, hay nói cách khác, của cơ quan lập pháp quốc gia, sẽ bao quát các trường hợp được liệt kê cụ thể. Việc nêu rõ các quyền hạn cụ thể này rõ ràng loại bỏ mọi tham vọng về một quyền lập pháp tổng quát, bởi lẽ việc trao quyền đặc thù một cách khẳng định sẽ là một sự vô lý và không cần thiết nếu ý định ban đầu là dành cho cơ quan này một quyền hạn chung không giới hạn.

Tương tự, quyền lực tư pháp của tòa án liên bang được Hiến pháp quy định bao gồm những vụ án cụ thể đã được chỉ rõ. Việc liệt kê những vụ án này giúp xác định rõ ràng giới hạn quyền hạn của tòa án liên bang, vì nếu danh sách này không loại trừ khả năng mở rộng quyền lực, thì sự chỉ rõ đó sẽ trở nên vô nghĩa.

Những ví dụ này đủ để làm sáng tỏ các nguyên tắc đã được đề cập và xác định cách thức mà chúng cần được áp dụng. Tuy nhiên, để tránh bất kỳ sự hiểu lầm nào liên quan đến vấn đề này, tôi sẽ bổ sung thêm một trường hợp nữa nhằm minh họa việc sử dụng đúng đắn các nguyên tắc này, đồng thời chỉ ra sự lạm dụng đã xảy ra đối với chúng.

Giả sử rằng theo luật của bang này, một phụ nữ đã kết hôn không có quyền chuyển nhượng tài sản của mình, và cơ quan lập pháp, sau khi nhận thấy đây là một vấn đề, đã ban hành đạo luật cho phép cô ấy chuyển nhượng tài sản bằng cách ký kết văn bản trước sự chứng kiến của một thẩm phán. Trong trường hợp này, rõ ràng việc nêu rõ phương thức cụ thể này sẽ loại bỏ mọi phương thức chuyển nhượng khác, bởi vì người phụ nữ vốn không có quyền chuyển nhượng tài sản trước đó, và quy định này xác định phương thức cụ thể mà cô ấy phải sử dụng để thực hiện mục đích đó. Tuy nhiên, giả sử thêm rằng trong một phần tiếp theo của cùng đạo luật, có quy định rằng không phụ nữ nào được chuyển nhượng tài sản có giá trị xác định mà không có sự đồng ý của ba người thân cận nhất, được thể hiện qua chữ ký của họ trên văn bản. Liệu có thể suy ra từ quy định này rằng một phụ nữ đã kết hôn không thể xin ý kiến đồng thuận của người thân để chuyển nhượng tài sản có giá trị thấp hơn? Quan điểm này quá vô lý để cần phải bác bỏ, nhưng đây chính là lập luận mà những người khẳng định rằng việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự bị bãi bỏ chỉ vì phương thức này được quy định rõ ràng cho các vụ án hình sự.

Từ những phân tích này, rõ ràng không thể phủ nhận rằng Hiến pháp được đề xuất không hề bãi bỏ việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong bất kỳ trường hợp nào. Tương tự, trong những tranh chấp giữa các cá nhân mà công chúng có khả năng quan tâm, cơ chế xét xử bằng bồi thẩm đoàn sẽ được duy trì chính xác như quy định trong các hiến pháp bang, và không chịu bất kỳ sự thay đổi hay ảnh hưởng nào từ việc thông qua kế hoạch đang được xem xét. Cơ sở cho lập luận này là các cơ quan tư pháp quốc gia sẽ không có thẩm quyền xét xử các vụ việc này, do đó chúng sẽ tiếp tục được giải quyết duy nhất bởi các tòa án bang, theo đúng các quy định của hiến pháp và luật pháp bang. Tất cả các vụ tranh chấp về đất đai, trừ những trường hợp liên quan đến các yêu sách từ các bang khác nhau, và tất cả các tranh chấp khác giữa các công dân trong cùng một bang, trừ khi chúng liên quan đến các vi phạm rõ ràng đối với các điều khoản của liên bang do hành động của cơ quan lập pháp bang, sẽ thuộc thẩm quyền độc quyền của các tòa án bang. Thêm vào đó, các vụ việc liên quan đến hàng hải và hầu hết các vụ việc thuộc thẩm quyền công bằng đều được giải quyết trong hệ thống của chúng ta mà không cần đến bồi thẩm đoàn. Do đó, từ tổng thể các yếu tố này, có thể thấy rằng cơ chế xét xử bằng bồi thẩm đoàn, như đang được áp dụng trong hệ thống của chúng ta hiện nay, sẽ không bị ảnh hưởng đáng kể bởi những thay đổi được đề xuất trong cấu trúc chính phủ.

Cả những người ủng hộ lẫn phản đối kế hoạch của hội nghị lập hiến, dù không đồng thuận về bất kỳ điều gì khác, ít nhất đều thống nhất về giá trị của việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Nếu có sự khác biệt giữa họ, thì đó là: những người ủng hộ xem xét xử bằng bồi thẩm đoàn như một biện pháp bảo vệ quan trọng cho tự do, trong khi những người phản đối coi nó là nền tảng cốt lõi của một chính phủ tự do. 

Về phần mình, càng quan sát hoạt động của cơ chế này, tôi càng tìm thấy nhiều lý do để đánh giá cao giá trị của nó. Việc xem xét mức độ hữu ích hoặc cần thiết của cơ chế này trong một nền cộng hòa đại diện, hay liệu nó có giá trị lớn hơn trong việc bảo vệ khỏi sự áp bức của một vị vua kế thừa so với việc ngăn chặn sự chuyên quyền của các quan chức được bầu trong một chính phủ dân chủ, là điều không cần thiết. Những thảo luận như vậy mang tính tò mò hơn là thực sự hữu ích, bởi mọi người đều đồng ý về tính hữu dụng của cơ chế này và vai trò thân thiện của nó đối với tự do. 

Tuy nhiên, tôi phải thừa nhận rằng tôi không dễ dàng nhận thấy mối liên hệ tất yếu giữa sự tồn tại của tự do và việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự. Những cuộc luận tội tùy tiện, các phương thức truy tố bất công đối với các hành vi bị cho là phạm tội, và những hình phạt khắc nghiệt dựa trên các phán quyết tùy tiện, từ lâu đã được tôi xem là những công cụ chính của chế độ chuyên quyền tư pháp; và tất cả những điều này đều liên quan đến các vụ án hình sự. Do đó, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án hình sự, với sự hỗ trợ của đạo luật habeas corpus(luật bảo vệ chống bắt giữ tuỳ tiện), dường như là vấn đề duy nhất cần quan tâm. Cả hai yếu tố này đều được đảm bảo một cách đầy đủ trong kế hoạch của hội nghị lập hiến.

Người ta đã nhận định rằng việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn là một biện pháp bảo vệ chống lại việc lạm dụng quyền lực thuế khóa một cách áp bức. Nhận định này cần được xem xét kỹ lưỡng.

Rõ ràng, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn không thể ảnh hưởng đến các quyết định của cơ quan lập pháp liên quan đến số lượng thuế phải nộp, các đối tượng chịu thuế, hoặc quy tắc phân bổ thuế. Do đó, nếu xét xử bằng bồi thẩm đoàn có bất kỳ tác động nào, thì đó phải là đối với phương thức thu thuế và hành vi của các viên chức được giao phó thực thi các luật thuế.

Về phương thức thu thuế tại bang này, theo Hiến pháp của chúng ta, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn hầu như không được sử dụng trong đa số các trường hợp. Thuế thường được thu thông qua quy trình tóm lược hơn, như tịch thu và bán tài sản, tương tự như cách xử lý tiền thuê nhà. Tất cả đều đồng ý rằng điều này là cần thiết để đảm bảo hiệu quả của các luật thuế. Việc áp dụng quy trình xét xử kéo dài tại tòa án để thu hồi thuế từ các cá nhân sẽ không đáp ứng được nhu cầu cấp bách của công chúng, cũng không mang lại sự thuận tiện cho công dân. Hơn nữa, điều này thường gây ra sự tích lũy các chi phí bổ sung, tạo gánh nặng lớn hơn so với số tiền thuế ban đầu phải nộp.

Về hành vi của các viên chức phụ trách thu thuế, quy định ủng hộ việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án hình sự sẽ mang lại sự bảo vệ cần thiết. Những hành vi cố ý lạm dụng quyền lực công để áp bức công dân, hoặc bất kỳ hình thức bóc lột nào từ phía các viên chức, đều là những hành vi vi phạm pháp luật đối với chính phủ, và những cá nhân thực hiện chúng có thể bị truy tố và trừng phạt tùy theo hoàn cảnh cụ thể của vụ việc.

Sự hiệu quả của xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ kiện dân sự dường như phụ thuộc vào các yếu tố không liên quan đến việc bảo vệ tự do. Lý do mạnh mẽ nhất để ủng hộ hình thức này là nó giúp ngăn ngừa tham nhũng. Việc tác động vào một nhóm thẩm phán thường trực dễ dàng hơn là tác động vào một bồi thẩm đoàn được triệu tập cho một vụ án cụ thể. Vì vậy, người ta có thể cho rằng tham nhũng sẽ dễ dàng ảnh hưởng đến nhóm thẩm phán thường trực hơn là đến bồi thẩm đoàn. Tuy nhiên, lập luận này bị yếu đi bởi các yếu tố khác. Chẳng hạn, viên cảnh sát trưởng, người triệu tập bồi thẩm đoàn trong các vụ án thông thường, và các thư ký tòa án, người chọn bồi thẩm đoàn trong các vụ án đặc biệt, đều là các công chức thường trực. Những cá nhân này có thể dễ dàng bị tham nhũng hơn các thẩm phán, những người làm việc tập thể. Không khó để tưởng tượng rằng các quan chức này có thể chọn những bồi thẩm viên phục vụ cho mục đích của một bên, giống như một tòa án bị tham nhũng. Hơn nữa, có thể dễ dàng tác động đến những bồi thẩm viên được chọn ngẫu nhiên từ công chúng hơn là những người được chính phủ lựa chọn vì tính liêm chính và phẩm hạnh tốt. Tuy nhiên, ngay cả khi xem xét những yếu tố này, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn vẫn là một biện pháp quan trọng để ngăn ngừa tham nhũng. Nó tạo ra thêm nhiều rào cản để tham nhũng không thể thành công. Hiện nay, để tham nhũng người ta sẽ cần phải ảnh hưởng đến cả tòa án và bồi thẩm đoàn. Nếu bồi thẩm đoàn phạm phải sai lầm rõ ràng, tòa án sẽ thường ra lệnh xét xử lại, vì vậy việc tác động đến bồi thẩm đoàn sẽ ít có hiệu quả nếu không thể cùng tác động đến tòa án. Do đó, có một lớp bảo vệ kép. Hệ thống này làm cho việc tham nhũng trở nên khó khăn hơn, giúp bảo vệ tính liêm chính của cả tòa án và bồi thẩm đoàn. Nó giảm thiểu khả năng các thẩm phán sẽ gặp phải cám dỗ hành động tham nhũng, vì họ cần sự hợp tác của bồi thẩm đoàn.

Mặc dù tôi đã bày tỏ những nghi ngờ về tính thiết yếu của việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ kiện dân sự đối với tự do, tôi thừa nhận rằng, dưới các quy định hợp lý, đây là một phương pháp tốt để giải quyết các tranh chấp về tài sản. Vì lý do này, nếu có thể xác định được giới hạn trong phạm vi áp dụng, nó hoàn toàn xứng đáng được quy định trong hiến pháp. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, việc xác định những giới hạn này luôn gặp phải khó khăn lớn. Những người không bị mù quáng bởi lý tưởng phải nhận thức rằng trong một hệ thống liên bang — nơi các xã hội có các quan điểm và thể chế khác biệt rõ rệt liên quan đến vấn đề này — sự khó khăn đó càng trở nên nghiêm trọng hơn. Cá nhân tôi, mỗi khi suy nghĩ sâu hơn về vấn đề này, tôi càng tin tưởng hơn vào thực tế của những rào cản mà, theo thông tin chính thức, đã ngăn cản việc đưa vào một điều khoản như vậy trong kế hoạch của đại hội.

Sự khác biệt đáng kể trong cách thức áp dụng xét xử bằng bồi thẩm đoàn giữa các bang không được hiểu rõ một cách rộng rãi, và vì điều này ảnh hưởng đến nhận định của chúng ta về sự thiếu sót được đề cập liên quan đến vấn đề này trong Hiến pháp, nên việc giải thích là cần thiết. 

Tại bang của chúng ta, hệ thống tư pháp của chúng ta có nhiều điểm tương đồng với hệ thống của Vương quốc Anh khi so với bất kỳ bang nào khác. Chúng ta có các tòa án thông luật, các tòa án di chúc (tương tự ở một số khía cạnh với các tòa án tôn giáo ở Anh), một tòa án hàng hải, và một tòa án công bằng. Chỉ trong các tòa án thông luật, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn mới được áp dụng phổ biến, với một số ngoại lệ. Trong các tòa án khác, một thẩm phán duy nhất chủ tọa và thường tiến hành xét xử theo các quy tắc của luật giáo hội hoặc luật dân sự, không có sự tham gia của bồi thẩm đoàn. 

Tại New Jersey, họ có một tòa án công bằng tương tự như của chúng ta, nhưng không có các tòa án hàng hải hoặc di chúc theo mô hình của chúng ta. Các tòa án thông luật của họ đảm nhận các vụ việc mà ở bang chúng ta thuộc thẩm quyền của các tòa án hàng hải và di chúc, do đó việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn được sử dụng rộng rãi hơn ở New Jersey so với ở New York. 

Tại Pennsylvania, điều này còn rõ rệt hơn, bởi họ không có tòa án công bằng, và các tòa án thông luật của họ xử lý cả các vụ việc thuộc thẩm quyền công bằng. Họ có một tòa án hàng hải, nhưng không có tòa án di chúc theo mô hình của chúng ta. 

Delaware noi theo mô hình của Pennsylvania. Maryland có hệ thống gần giống với New York, cũng như Virginia, ngoại trừ việc Virginia có nhiều thẩm phán công bằng hơn. North Carolina tương đồng nhất với Pennsylvania, trong khi South Carolina giống Virginia. 

Tuy nhiên, tại một số bang có các tòa án hàng hải riêng biệt, các vụ việc tại đó vẫn có thể được xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Tại Georgia, chỉ có các tòa án thông luật, và việc kháng cáo từ phán quyết của một bồi thẩm đoàn được chuyển đến một bồi thẩm đoàn đặc biệt, được lựa chọn theo một phương thức đặc thù. 

Tại Connecticut, không có các tòa án công bằng (court of chancery) hoặc hàng hải riêng biệt, và các tòa án di chúc của họ không xử lý các tranh chấp. Các tòa án thông luật của họ đảm nhận các vụ việc hàng hải và một phần các vụ việc công bằng. Trong những vụ việc quan trọng, Quốc hội của họ đóng vai trò như tòa án công bằng. Do đó, trên thực tế, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn tại Connecticut được áp dụng rộng rãi hơn so với bất kỳ bang nào đã được đề cập. 

Rhode Island, theo quan điểm của tôi, có tình hình tương tự như Connecticut. Massachusetts và New Hampshire cũng kết hợp các thẩm quyền thông luật, công bằng, và hàng hải trong các tòa án của họ. Tại bốn bang miền Đông này, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn không chỉ được đặt trên một nền tảng vững chắc hơn so với các bang khác, mà còn đi kèm với một đặc điểm độc đáo, chưa được biết đến một cách đầy đủ ở bất kỳ bang nào khác: việc kháng cáo từ một bồi thẩm đoàn này sang bồi thẩm đoàn khác được thực hiện theo thông lệ, cho đến khi có hai trong số ba phán quyết đồng thuận về cùng một phía.

Từ bản phác thảo này, có thể thấy rõ rằng tồn tại những khác biệt đáng kể về cách thức tổ chức và phạm vi áp dụng của cơ chế xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự giữa các bang. Từ thực tế này, hai kết luận hiển nhiên được rút ra: thứ nhất, hội nghị lập hiến không thể thiết lập một quy tắc chung phù hợp với hoàn cảnh của tất cả các bang; và thứ hai, việc áp dụng hệ thống của một bang bất kỳ làm tiêu chuẩn sẽ tiềm ẩn rủi ro lớn, hoặc ít nhất là tương đương, so với việc không đưa ra quy định cụ thể và để vấn đề này được giải quyết thông qua các quy định lập pháp, như cách đã được thực hiện.

Các đề xuất nhằm khắc phục sự thiếu sót liên quan đến quy định về xét xử bằng bồi thẩm đoàn chỉ làm nổi bật khó khăn của vấn đề hơn là giải quyết nó một cách hiệu quả. Nhóm thiểu số tại Pennsylvania đã đề xuất cách diễn đạt này để giải quyết vấn đề: “Việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn sẽ được duy trì như trước đây.” Tuy nhiên, tôi cho rằng cách diễn đạt này là vô nghĩa và không có hiệu lực. Hoa Kỳ, với tư cách là một thực thể thống nhất, là đối tượng mà tất cả các quy định chung trong Hiến pháp phải được diễn giải để hướng tới. Rõ ràng, mặc dù việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn, với những giới hạn đa dạng, được áp dụng tại từng bang riêng lẻ, nhưng tại Hoa Kỳ với tư cách là một thực thể thống nhất, cơ chế này hiện tại hoàn toàn không tồn tại, bởi chính phủ liên bang hiện nay không sở hữu bất kỳ quyền tư pháp nào. Do đó, không tồn tại một thiết chế hoặc hệ thống trước đó để cụm từ “trước đây” có thể ám chỉ. Vì vậy, cách diễn đạt này thiếu ý nghĩa chính xác và không thể áp dụng do tính mơ hồ của nó.

Một mặt, cách diễn đạt của quy định được đề xuất sẽ không đáp ứng được ý định của những người đưa ra nó. Mặt khác, nếu tôi hiểu đúng ý định đó, bản thân quy định này sẽ là không phù hợp. Tôi cho rằng ý định của họ là các vụ việc tại các tòa án liên bang nên được xét xử bằng bồi thẩm đoàn nếu bang nơi tòa án đặt trụ sở áp dụng phương thức xét xử này cho các vụ việc tương tự tại các tòa án bang; nói cách khác, các vụ việc hàng hải sẽ được xét xử bằng bồi thẩm đoàn tại Connecticut, nhưng không sử dụng bồi thẩm đoàn tại New York. Sự vận hành không nhất quán của một phương thức xét xử khác biệt như vậy đối với cùng một loại vụ việc, dưới cùng một chính phủ, tự bản thân nó đã đủ để khiến bất kỳ nhận định hợp lý nào không ủng hộ quy định này. Việc một vụ việc được xét xử có hay không có bồi thẩm đoàn sẽ phụ thuộc, trong nhiều trường hợp, vào vị trí ngẫu nhiên của tòa án và các bên liên quan.

Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, đây không phải là vấn đề nghiêm trọng nhất. Tôi có một niềm tin sâu sắc và cân nhắc kỹ lưỡng rằng trong nhiều vụ việc, việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn là không phù hợp. Tôi đặc biệt cho rằng điều này đúng trong các vụ việc liên quan đến hòa bình với các quốc gia khác, tức là trong hầu hết các trường hợp mà vấn đề hoàn toàn phụ thuộc vào luật quốc tế. Trong số đó, các vụ việc về chiến lợi phẩm là một ví dụ điển hình. Không thể cho rằng bồi thẩm đoàn có đủ năng lực để tiến hành các cuộc điều tra đòi hỏi kiến thức sâu rộng về luật pháp và tập quán quốc tế; hơn nữa, đôi khi họ có thể chịu ảnh hưởng của những cảm xúc khiến họ không thể xem xét đầy đủ các yếu tố chính sách công mà lẽ ra phải định hướng cho quá trình xét xử của họ. Do đó, luôn tồn tại nguy cơ rằng các phán quyết của họ có thể xâm phạm quyền lợi của các quốc gia khác, dẫn đến những cơ hội cho sự trả đũa hoặc thậm chí là chiến tranh. Mặc dù lĩnh vực thích hợp của bồi thẩm đoàn là xác định các vấn đề thực tế, trong phần lớn các vụ việc, hậu quả pháp lý lại đan xen phức tạp với các yếu tố thực tế đến mức việc tách rời chúng là điều không khả thi.

Lập luận này liên quan đến các vụ việc về chiến lợi phẩm được củng cố đáng kể khi chúng ta lưu ý rằng phương thức giải quyết các vụ việc này đã được coi là quan trọng đến mức được quy định cụ thể trong nhiều hiệp ước giữa các cường quốc châu Âu. Theo các hiệp ước này, tại Vương quốc Anh, các vụ việc như vậy cuối cùng được quyết định bởi chính nhà vua trong hội đồng cơ mật của ông, nơi mà cả yếu tố thực tế lẫn pháp lý đều được xem xét lại. Chỉ riêng thực tế này đã chứng minh sự không phù hợp của việc đưa một quy định cơ bản vào Hiến pháp, buộc chính phủ quốc gia phải tuân theo các hệ thống của bang trong vấn đề đang được xem xét, đồng thời nhấn mạnh nguy cơ gây cản trở cho chính phủ bằng những quy định hiến pháp mà tính hợp lý của chúng không phải là không thể tranh cãi.

Tôi có niềm tin mãnh liệt rằng việc tách biệt thẩm quyền công bằng khỏi thẩm quyền thông luật mang lại nhiều lợi ích to lớn, và rằng các vụ việc thuộc thẩm quyền công bằng sẽ không phù hợp để giao cho bồi thẩm đoàn xét xử. Mục đích chính và cơ bản của tòa án công bằng là cung cấp biện pháp khắc phục trong các vụ việc đặc biệt, vốn là những ngoại lệ đối với các quy tắc chung. Việc kết hợp thẩm quyền của những vụ việc đặc biệt này với thẩm quyền thông thường có xu hướng làm xáo trộn các quy tắc chung và khiến mọi vụ việc phát sinh phải chịu một phán quyết đặc thù. Ngược lại, việc tách biệt hai thẩm quyền này có tác dụng trái ngược, đảm bảo rằng mỗi bên đóng vai trò như một người canh gác đối với bên kia, giữ cho cả hai nằm trong những giới hạn phù hợp. Hơn nữa, các tình huống cấu thành các vụ việc thuộc thẩm quyền của tòa án công bằng thường tinh tế và phức tạp đến mức không tương thích với bản chất của việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Những vụ việc này thường đòi hỏi sự điều tra lâu dài, cẩn trọng và kỹ lưỡng, điều không khả thi đối với những người được triệu tập từ công việc của họ và bị yêu cầu đưa ra phán quyết trước khi được phép trở lại công việc. Đặc tính nổi bật của xét xử bằng bồi thẩm đoàn là sự đơn giản và nhanh chóng, đòi hỏi vấn đề cần quyết định phải được thu gọn thành một điểm duy nhất và rõ ràng. Tuy nhiên, các vụ kiện tại tòa án công bằng thường bao hàm một chuỗi dài các chi tiết nhỏ lẻ và độc lập, mang tính phức tạp.

Thật sự, việc tách biệt thẩm quyền công bằng khỏi thẩm quyền thông luật là đặc trưng của hệ thống tư pháp Anh, mô hình mà một số bang đã noi theo. Nhưng cũng đúng không kém khi xét xử bằng bồi thẩm đoàn không được áp dụng trong bất kỳ vụ việc nào khi hai thẩm quyền này được kết hợp. Việc duy trì sự tách biệt này là thiết yếu để bảo vệ sự tinh khiết nguyên bản của cơ chế xét xử bằng bồi thẩm đoàn. Bản chất của tòa án công bằng dễ dàng cho phép mở rộng thẩm quyền của nó sang các vấn đề pháp lý; tuy nhiên, không ít nghi ngại rằng nỗ lực mở rộng thẩm quyền của các tòa án thông luật sang các vấn đề công bằng không chỉ không mang lại những lợi ích mà các tòa án công bằng, theo mô hình được thiết lập tại bang này, có thể cung cấp, mà còn có xu hướng dần dần thay đổi bản chất của các tòa án thông luật và làm suy yếu cơ chế xét xử bằng bồi thẩm đoàn bằng cách đưa vào các vấn đề quá phức tạp để có thể đưa ra quyết định theo phương thức này.

Những lý do này dường như là bằng chứng thuyết phục chống lại việc kết hợp hệ thống của tất cả các bang vào việc hình thành hệ thống tư pháp quốc gia, như điều mà nhóm thiểu số tại Pennsylvania có thể đã cố gắng thực hiện. Giờ đây, chúng ta hãy xem xét mức độ mà đề xuất của Massachusetts được thiết kế để khắc phục khuyết điểm được cho là này.

Nó được diễn đạt như sau: “Trong các vụ kiện dân sự giữa các công dân của các bang khác nhau, mọi vấn đề thực tế phát sinh trong các vụ việc thuộc thông luật có thể được xét xử bởi bồi thẩm đoàn nếu các bên, hoặc một trong số họ, yêu cầu điều đó.”

Ở mức độ tốt nhất, đây là một đề xuất chỉ giới hạn trong một loại vụ án nhất định. Sự suy luận hợp lý là hoặc hội nghị Massachusetts đã cho rằng đây là loại vụ án duy nhất trong hệ thống liên bang mà việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn là phù hợp, hoặc, mặc dù mong muốn một quy định rộng hơn, họ đã nhận thấy rằng việc xây dựng một quy định có thể đạt được mục đích đề ra là điều không khả thi. Nếu là trường hợp đầu tiên, việc thiếu một quy định cho một vấn đề đặc thù như vậy sẽ không thể được coi là một khuyết điểm nghiêm trọng trong hệ thống. Nếu là trường hợp sau, điều này càng làm tăng sức thuyết phục cho quan điểm rằng việc xây dựng một quy định như vậy thực sự là vô cùng khó khăn.

Tuy nhiên, vấn đề không dừng lại ở đây: khi xem xét lại những nhận định trước đó về các tòa án tại các bang khác nhau trong Liên bang và các quyền hạn riêng biệt của chúng, rõ ràng rằng các thuật ngữ được sử dụng để xác định loại vụ việc dự định áp dụng xét xử bằng bồi thẩm đoàn là hết sức mơ hồ và không rõ ràng. Tại bang của chúng ta, ranh giới giữa các vụ việc thuộc thông luật và các vụ việc thuộc thẩm quyền công bằng được xác định rõ ràng, tuân theo các quy tắc được thiết lập tại Anh quốc. Tuy nhiên, ở nhiều bang khác, ranh giới này kém rõ nét hơn. Ở một số bang, mọi vụ việc đều được xử lý tại các tòa án thông luật, dẫn đến việc mọi vụ việc có thể được coi là thuộc thông luật và được xét xử bởi bồi thẩm đoàn nếu một trong các bên yêu cầu. Do đó, việc chấp thuận đề xuất này sẽ gây ra sự bất nhất và rối loạn tương tự như quy định do nhóm thiểu số Pennsylvania đề xuất. Tại một bang, một vụ việc có thể được giải quyết bởi bồi thẩm đoàn theo yêu cầu của một bên, nhưng tại một bang khác, một vụ việc tương tự lại phải được quyết định mà không có bồi thẩm đoàn, do sự khác biệt trong cách các cơ quan tư pháp bang xử lý thẩm quyền thông luật.

Do đó, rõ ràng rằng đề xuất của Massachusetts về vấn đề này không thể hoạt động như một quy tắc chung cho đến khi một kế hoạch thống nhất, liên quan đến việc xác định ranh giới giữa thẩm quyền thông luật và thẩm quyền công bằng, được các bang khác nhau thông qua. Việc xây dựng một kế hoạch như vậy bản thân nó đã là một nhiệm vụ đầy thách thức, đòi hỏi nhiều thời gian và sự cân nhắc kỹ lưỡng để hoàn thiện. Sẽ vô cùng khó khăn, nếu không muốn nói là bất khả thi, để đề xuất một quy tắc chung được tất cả các bang trong Liên bang chấp nhận hoặc hoàn toàn phù hợp với các thiết chế hiện có của từng bang.

Có thể đặt câu hỏi, tại sao không tham chiếu đến hiến pháp của bang (New York) này, vốn được tôi đánh giá là một hiến pháp tốt, để làm chuẩn mực cho Hoa Kỳ? Tôi trả lời rằng có lẽ các bang khác sẽ không chia sẻ quan điểm cao về các thiết chế của chúng ta như chính chúng ta. Điều tự nhiên là họ vẫn còn gắn bó hơn với các hệ thống của riêng mình, và mỗi bang sẽ đấu tranh để được ưu tiên. Nếu ý tưởng lấy một bang làm hình mẫu cho toàn bộ Liên bang đã được xem xét tại hội nghị, có thể giả định rằng việc thông qua ý tưởng đó trong cơ quan này sẽ gặp khó khăn do sự thiên vị của mỗi đại diện đối với chính quyền bang của mình; và vẫn còn không chắc chắn bang nào sẽ được chọn làm hình mẫu. Nhiều hệ thống luật của các bang đã được chỉ ra là không phù hợp. Và tôi nhường sự suy đoán lại rằng liệu, trong mọi hoàn cảnh, New York hay một bang khác sẽ được ưu tiên hơn. Nhưng ngay cả khi hội nghị có thể đưa ra một lựa chọn sáng suốt, vẫn sẽ tồn tại nguy cơ lớn về sự ghen tị và bất mãn từ các bang khác, do sự thiên vị đối với các thiết chế của một bang. Những đối thủ của kế hoạch sẽ có được một lý do tuyệt vời để khơi dậy một loạt các định kiến địa phương chống lại nó, và điều này có thể đe dọa nghiêm trọng đến việc thiết lập cuối cùng của kế hoạch đó.

Để tránh những khó khăn trong việc xác định các vụ việc mà xét xử bằng bồi thẩm đoàn nên áp dụng, một số cá nhân nhiệt huyết đôi khi đề xuất rằng có thể đưa vào một quy định yêu cầu xét xử bằng bồi thẩm đoàn cho tất cả các vụ việc mà không có ngoại lệ. Tôi tin rằng không có tiền lệ nào như vậy được tìm thấy tại bất kỳ bang nào trong Liên bang. Những lập luận đã được trình bày khi thảo luận về đề xuất của nhóm thiểu số Pennsylvania chắc chắn sẽ thuyết phục bất kỳ tư duy tỉnh táo nào rằng việc thiết lập xét xử bằng bồi thẩm đoàn cho mọi vụ việc sẽ là một sai lầm không thể chấp nhận được trong kế hoạch này.

Tóm lại, càng xem xét kỹ lưỡng, càng rõ ràng rằng việc xây dựng một quy định sao cho vừa đủ — không quá yếu để đạt được mục đích, cũng không quá mạnh để có thể áp dụng một cách hợp lý — là một nhiệm vụ vô cùng khó khăn; đồng thời, không mở ra những nguồn phản đối khác có thể cản trở mục tiêu quan trọng và thiết yếu là xây dựng một chính phủ quốc gia vững mạnh.

Tuy nhiên, tôi tin chắc rằng những góc nhìn đa dạng được trình bày trong quá trình thảo luận này sẽ góp phần lớn vào việc xoa dịu những lo ngại của những tư duy cởi mở về vấn đề này. Các lập luận đã chỉ ra rằng việc bảo vệ tự do chủ yếu liên quan đến xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án hình sự, điều được quy định đầy đủ trong kế hoạch của hội nghị lập hiến. Ngay cả trong phần lớn các vụ án dân sự, đặc biệt là những vụ việc thu hút sự quan tâm của đông đảo cộng đồng, phương thức xét xử này sẽ vẫn được duy trì nguyên vẹn theo các hiến pháp bang, không bị ảnh hưởng hay thay đổi bởi kế hoạch của hội nghị. Kế hoạch này không hề bãi bỏ xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong bất kỳ trường hợp nào. Hơn nữa, tồn tại những khó khăn đáng kể, nếu không muốn nói là không thể vượt qua, trong việc xây dựng một quy định rõ ràng và phù hợp cho xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong Hiến pháp Hoa Kỳ.

Những người am hiểu nhất về vấn đề này sẽ ít khao khát nhất trong việc quy định bắt buộc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án dân sự vào Hiến pháp và sẽ sẵn sàng nhất để thừa nhận rằng những biến đổi không ngừng trong các vấn đề xã hội có thể khiến các phương thức khác để giải quyết các tranh chấp tài sản trở nên ưu việt hơn trong nhiều trường hợp mà phương thức xét xử bằng bồi thẩm đoàn này hiện đang được áp dụng. Về phần mình, tôi thừa nhận rằng tôi tin tưởng rằng ngay cả tại bang này, xét xử bằng bồi thẩm đoàn có thể được mở rộng một cách hữu ích đến một số vụ việc mà hiện tại nó chưa được áp dụng, và cũng có thể được thu hẹp một cách hữu ích trong một số trường hợp khác. Tất cả những người có nhận thức hợp lý đều đồng ý rằng xét xử bằng bồi thẩm đoàn không nên được áp dụng trong mọi trường hợp. Các ví dụ về những đổi mới làm thu hẹp phạm vi truyền thống của nó, cả tại các bang này lẫn tại Vương quốc Anh, cho thấy một giả định mạnh mẽ rằng phạm vi trước đây của nó đã được coi là bất tiện, và nó tạo cơ sở để cho rằng kinh nghiệm trong tương lai có thể phát hiện ra tính hợp lý và hữu ích của các ngoại lệ khác. Tôi cho rằng bản chất của vấn đề khiến việc xác định một điểm dừng lý tưởng cho hoạt động của cơ chế bồi thẩm đoàn này là bất khả thi, và điều này đối với tôi là một lập luận thuyết phục để giao phó vấn đề này cho sự quyết định của cơ quan lập pháp.

Hiện nay, điều này đã được hiểu rõ là đúng ở Vương quốc Anh và cũng tương tự ở tiểu bang Connecticut. Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng kể từ Cách mạng, đã có nhiều sự xâm phạm quyền xét xử bằng bồi thẩm đoàn tại tiểu bang này—mặc dù quyền này đã được quy định rõ ràng trong hiến pháp của chúng ta—hơn là ở cả Vương quốc Anh lẫn Connecticut. Những sự xâm phạm này thường xuất phát từ những người tự xưng là những người bảo vệ mạnh mẽ nhất cho quyền tự do của nhân dân, nhưng ít khi để cho những rào cản hiến pháp ngăn cản họ trong sự nghiệp chính trị yêu thích của mình. Sự thật là, bản chất tổng thể của một chính phủ mới là yếu tố có thể tin cậy để tạo ra những hiệu quả lâu dài. Những điều khoản cụ thể, mặc dù không hoàn toàn vô ích, nhưng ít có giá trị và hiệu quả như người ta thường tưởng tượng. Việc thiếu các điều khoản đó sẽ không bao giờ là lý do quyết định để phản đối bất kỳ kế hoạch nào thể hiện những đặc điểm chủ yếu của một chính phủ tốt.

Việc khẳng định rằng một Hiến pháp không bảo đảm tự do chỉ vì nó quy định rõ ràng việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong các vụ án hình sự nhưng không đề cập đến điều này trong các vụ án dân sự thì rõ ràng đó là một điều có phần nghiêm khắc và bất thường. Trong khi đó, một thực tế được biết đến rộng rãi là Connecticut, bang vốn luôn được xem là bang dân chủ nhất trong Liên bang, không có bất kỳ quy định hiến pháp nào cho việc xét xử bằng bồi thẩm đoàn trong cả hai loại vụ việc này.

PUBLIUS.


Đăng ngày

trong