Trường phái kinh tế học Áo – Lược khảo. Chương 6: Phối hợp thông qua thị trường

Tác giả: Eamonn Butler.

Dịch giả: Phạm Nguyên Trường. Hiệu đính: Nguyễn Đức Thành.

Chương 6. Phối hợp thông qua thị trường

•           Giá cả phối hợp hoạt động của vô số người trên khắp thế giới. Giá cao cho thấy món hàng đó đang khan hiếm, nhưng còn thúc đẩy người ta cung cấp nó và làm cho nó không còn khan hiếm nữa. 

•           Có nhiều cách khác nhau để sản xuất cùng một sản phẩm. Giá cả khuyến khích người ta sử dụng hỗn hợp đầu vào rẻ nhất. Đến lượt mình, các quyết định của họ lại gây ra ảnh hưởng đối với giá đầu vào trên những thị trường khác, khởi động một loạt vụ điều chỉnh uyển chuyển. 

•           Thông tin về cung, cầu và giá cả là cực kì cần thiết khi tiến hành các lựa chọn kinh tế. Bằng cách sử dụng thông tin không đầy đủ, luôn luôn thay đổi, có tính khu vực và cá nhân, thị trường có thể đưa ra những lựa chọn nhanh hơn và tốt hơn hẳn so với các nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung. 

•           Thị trường đưa giá trị của những món hàng mà mỗi người làm ra cho những người khác – không phụ thuộc vào phẩm chất cá nhân của người sản xuất và giá trị gia tăng là do làm việc chăm chỉ, phán đoán chính xác hay chỉ là may mắn. 

Mô hình “cạnh tranh hoàn hảo” trong các cuốn sách giáo khoa phải chịu trách nhiệm về rất nhiều chính sách sai lầm. Nó làm cho người ta mường tượng rằng thị trường trong thế giới thực là “không hoàn hảo” và phải có những biện pháp nhằm khắc phục những hiện tượng không hoàn hảo đó. Nó giả định rằng các nhà cung cấp là những người hoàn toàn giống nhau, rằng các nhà cung cấp mới không gặp bất cứ rào cản nào khi tham gia thị trường và cạnh tranh sẽ làm cho lợi nhuận giảm xuống một mức nào đó chung cho tất cả các ngành nghề. Vì vậy, khi người ta thấy rằng trong thế giới thực, những người mới bước vào thương trường gặp khá nhiều rào cản, các nhà cung cấp không phải là những người giống hệt nhau và một số doanh nhân lãi to, họ liền coi đấy là những “thất bại của thị trường”, cần phải được điều chỉnh. 

Nhiều người còn đi xa hơn, họ nói rằng hệ thống thị trường – vì không được lập kế hoạch và không có chỉ đạo từ trung ương – không bao giờ có thể cung cấp được lợi ích kinh tế một cách hợp lí hoặc hiệu quả. Vì vậy, họ kêu gọi kế hoạch hóa cả quá trình sản xuất lẫn phân phối. 

Thị trường hóa giải những khác biệt của chúng ta 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo phản bác rằng, trên thực tế, thị trường là hệ thống cực kì hiệu quả; nó hướng các nguồn lực, trong đó có thời gian và kĩ năng, cũng như hàng hoá vật chất, tới những nơi mà chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Nhưng, thị trường giải quyết được vấn đề này vì nó khác hẳn với mô tả trong các cuốn sách giáo khoa. Thị trường không hoạt động vì mọi người đều giống nhau, mà vì họ là những người khác nhau. Nó phối hợp những sự khác biệt của họ và tạo điều kiện để họ sử dụng những tài năng khác nhau của mình sao cho mọi người cùng có lợi. 

Trên thực tế, thị trường liên kết được rất nhiều người và là những người khác nhau trên thế giới, và tạo điều kiện để họ hợp tác một cách hòa bình. Với sự khác biệt chính trị giữa các nước như hiện nay, đấy là thành quả rất lớn và khó có thiết chế nào khác có thể làm được như vậy. Đúng là, tôi liên kết với người dân trên khắp địa cầu. Giày của tôi được sản xuất ở Italy, áo sơ mi của tôi được sản xuất ở Trung Quốc. Tôi uống rượu vang được sản xuất ở Chile và tôi xem phim Mĩ. Người dân những nước này đang sản xuất những món hàng mà tôi mua, và đổi lại tôi gửi cho họ tiền. Cả hai bên đều nghĩ rằng chúng tôi trao đổi một cách bình đẳng. Cả hai bên đều được lợi. 

Tất nhiên là, tôi không biết cái gì thúc đẩy người dân ở Italy, ở Trung Quốc, ở Chile hay ở Mĩ. Tất cả những người đó đều có những niềm tin, giá trị và tham vọng khác nhau. Điều mà thị trường làm được là tạo điều kiện hóa giải những mục tiêu của chúng ta, bởi vì những giao dịch về kinh tế như thế làm cho cả hai bên đều được lợi. Họ được tiền để chi tiêu cho mình và cho gia đình, tôi có quần áo mặc hay được giải trí khi xem phim. Tham vọng khác nhau của chúng ta là gì không quan trọng. Thật vậy, chúng ta càng đánh giá khác nhau thì trao đổi càng mang lại cho chúng ta nhiều lợi ích hơn. Thị trường giúp tất cả chúng ta đạt được mục đích của mình, dù mục đích có là gì thì cũng thế. Vai trò thích hợp của chính sách công là phải để cho thị trường thúc đẩy sự hợp tác tự do giữa chúng ta, chứ không tìm cách ép chúng ta chấp nhận khái niệm có sẵn về việc chúng ta phải coi cái gì là có giá trị. 

Giá cả là thông tin liên lạc 

Nhưng làm sao thị trường có thể phối hợp hoạt động của hàng triệu người trên hành tinh và tạo điều kiện để họ hợp tác vì lợi ích chung, mặc dù họ không bao giờ gặp nhau và coi trọng những thứ rất khác nhau? Theo Hayek, câu trả lời là hệ thống giá cả, hoạt động như một hệ thống thông tin liên lạc cực kì rộng lớn. 

Giá cả có thể chỉ là tỉ lệ trao đổi mà mọi người sẵn sàng trao đổi món hàng này lấy món hàng khác. Nhưng giá cả cũng bao hàm quan niệm về giá trị của tất cả những người tham gia thương trường. Nếu món hàng được mọi người đánh giá cao thêm, họ sẽ sẵn sàng đánh đổi bằng nhiều thứ khác – ví dụ như tiền – để lấy nó. Giá cả tăng đưa ra tín hiệu cho các nhà cung cấp rằng họ sẽ được lợi nếu mang thêm món hàng này ra thị trường và họ sẽ làm đúng như thế. Nhưng, trong khi động cơ duy nhất của họ là kiếm lời thì hành động của họ lại chuyển các nguồn lực đến nơi mà chúng sẽ làm cho đồng bào của họ hài lòng hơn. Hệ thống giá cả đã và đang phối hợp những sở thích thường xuyên thay đổi của khách hàng và nhà cung cấp. 

Hayek sử dụng ví dụ về sự gia tăng giá thiếc. Có thể người ta đã tìm được ứng dụng mới cho thiếc hay một số mỏ thiếc đã cạn kiệt. Trên thực tế, đấy không phải là điều quan trọng. Khách hàng bây giờ biết rằng nếu muốn tiết kiệm tiền thì họ phải sử dụng thiếc một cách thận trọng, chỉ sử dụng nó ở những chỗ thật cần thiết và tìm kiếm các chất thay thế rẻ hơn cho những mục đích khác. Đến lượt mình, nhu cầu về chất thay thế mới sẽ làm cho giá của nó tăng, thúc đẩy người dùng hành động theo cách nói trên. Đến lượt mình, những người sử dụng những chất thay thế đó sẽ được nhắc nhở là phải tiết kiệm và cứ thế tiếp tục. Như Mises nói, mỗi sự thay đổi trên thị trường đều kích hoạt một loạt những thay đổi khác, vì người ta điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với tình huống mới – và phù hợp với phản ứng của những người khác trước tình huống đó. 

Bằng cách đó, toàn bộ thị trường điều chỉnh theo sự khan hiếm của thiếc. Trên thị trường, người ta không cần biết và không cần đánh giá tất cả những cách sử dụng thiếc và cũng không cần xác định sử dụng vào việc gì là quan trọng nhất – họ cũng không thể nào làm được. Thay vào đó, hệ thống giá cả cung cấp cho người ta tất cả thông tin cần thiết để họ phối hợp hành động của mình với hành động của tất cả những người khác. Và phản ứng của họ trước thông tin đó tự động lái các nguồn lực ra khỏi những nơi chúng có giá trị sử dụng thấp đến nơi chúng có giá trị sử dụng cao nhất. 

Giá cả đảm bảo hỗn hợp đầu vào rẻ nhất 

Có một số hoặc nhiều cách khác nhau để làm ra cùng một sản phẩm. Những người mua tấm bạt (một ví dụ khác của Hayek) có lẽ chẳng mấy quan tâm đến việc chúng được làm từ cây gai dầu, lanh, đay, bông hay nylon. Do đó, nhà sản xuất chọn loại vật liệu rẻ tiền nhất – nghĩa là, chọn loại vật liệu đòi hỏi hi sinh ít nhất những sản phẩm đáng mong muốn khác. Bằng cách tìm kiếm chi phí thấp nhất, nhà sản xuất giải phóng những nguồn tài nguyên, để đưa chúng tới những nơi mà chúng có thể được đánh giá cao hơn. 

Tương tự, khi sản phẩm chứa nhiều thành phần, nhà sản xuất sẽ tìm kiếm sự kết hợp đầu vào với chi phí thấp nhất. Nếu một số đầu vào, ví dụ như thiếc, trở nên đắt đỏ hơn, thì đấy là tín hiệu nói rằng các nhà sản xuất khác đánh giá nó cao hơn, và các nhà sản xuất có thể giảm mức độ phụ thuộc của họ vào thiếc bằng cách đưa các chất thay thế rẻ hơn vào hỗn hợp đầu vào của mình. Bằng cách đó, hệ thống giá cả cho thấy tất cả các vật liệu đều được sử dụng với giá trị cao nhất, và khuyến khích chúng ta – trong khi theo đuổi những mục đích của mình – sử dụng chúng một cách tiết kiệm nhất. 

Quá trình điều chỉnh trước những thay đổi trên thương trường, tương tự một loạt thay đổi về giá cả do giá thiếc tăng lên gây ra, không diễn ra ngay lập tức hay có tính cơ học, như mô hình trong sách giáo khoa đề xuất. Trên thị trường với hàng triệu sản phẩm đang được trao đổi, sẽ có một loạt thay đổi đến từ những hướng khác nhau, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng đều phải lèo lái để vượt qua những biến động đó. Nó cũng gần giống như khi ta tìm cách đi qua bến xe buýt đông người, khi có hàng ngàn người đang chạy theo những hướng khác nhau. Đấy là quá trình rất phức tạp, một quá trình xã hội, trong đó, những phán đoán đang thay đổi về cách đánh giá của người ta sẽ có ý nghĩa quyết định – chứ không phải là quá trình có thể được mô tả và dự đoán bằng toán học. 

Đáng chú ý là hệ thống điều khiển nguồn lực đến nơi nó được đánh giá cao nhất lại là hệ thống hoàn toàn tự động. Đấy không phải là hệ thống do các chính phủ cố tình thiết kế và các quan chức phải làm việc này. Hệ thống giá cả phát sinh một cách tự nhiên và tiếp tục tồn tại vì nó hoạt động – tương tự cách ngôn ngữ xuất hiện và tồn tại, vì nó giúp người ta giao tiếp với nhau. Thật vậy, hệ thống giá cả là hệ thống cực kì hiệu quả trong việc thu thập, sử dụng, xử lí và phổ biến thông tin về những nguồn tài nguyên khan hiếm và giá trị mà mọi người gán cho chúng. 

Thị trường sử dụng thông tin  (cục bộ?) như thế nào 

Trong mô hình sách giáo khoa kinh tế, thông tin là “hoàn hảo” và làm cho thị trường hoạt động hiệu quả. Nhưng trong thực tế, thông tin còn lâu mới hoàn hảo. Không ai có được thông tin hoàn hảo. Phần lớn thông tin chúng ta có là không đầy đủ, rời rạc, không chính xác, mâu thuẫn nhau, rối rắm, mang tính cá nhân, mất nhiều chi phí mới có và khó chuyển đi. Chính vì thông tin là không hoàn hảo mà thị trường hoạt động tốt hơn bất kì hình thức tổ chức kinh tế nào khác. 

Người ta thường nghĩ rằng thông tin là minh bạch và có thể tiếp cận được, tương tự sách trong thư viện. Trên thực tế, nhiều “thông tin” thực ra lại là những lí thuyết đối nghịch nhau của các chuyên gia khác nhau. Và hầu hết thông tin nằm tản mác ở nhiều nơi, chỉ một số người đặc biệt mới biết và không thể dễ dàng ghi lại và truyền đi. Ví dụ, những người môi giới bất động sản nắm được những cơ hội nhất thời trên thị trường đang thay đổi rất nhanh này, họ phải gắn kết nhu cầu của nhiều người mua khác nhau với tài sản đang có mỗi ngày. Phần lớn kiến thức mà họ có chỉ đơn giản là “cảm giác” của người có nghề về thị trường khu vực, được hình thành nhờ kinh nghiệm. Họ có thể, thậm chí, không thể mô tả chứ chưa nói tới việc truyền đạt những kiến thức đó. 

Cảm giác của họ có thể không phải lúc nào cũng chính xác. Thông tin của họ có thể không đầy đủ. Họ có thể đánh giá quá cao khả năng trả tiền của khách hàng và bị đối thủ cạnh tranh, tức là người có quan điểm khác và đưa ra giá thấp hơn, cướp mất cơ hội bán hàng. Hoặc họ có thể bỏ qua việc một con đường mới hoặc sự phát triển của trường học và ảnh hưởng của chúng đến cầu về bất động sản. Nhưng có một điều chắc chắn: Họ sẽ nắm được thông tin về điều kiện của địa phương tốt hơn những người lập kế hoạch ở trung ương xa xôi. Trong khi các quan chức địa phương thu thập được những thông tin mà họ có thể thu thập được và gửi về trung ương thì đấy là thông tin vừa thiếu, vừa lạc hậu rồi. Trong khi trung ương đánh giá xong những quan điểm trái ngược nhau của những cơ quan khác nhau, thì các sự kiện ở địa phương đã thay đổi và đánh giá của trung ương trở thành vô dụng. Thị trường với hệ thống thông tin về giá cả của nó tuyệt vời ở chỗ nó tạo điều kiện cho người ta sử dụng thông tin mang tính cá nhân, tại chỗ và phân tán, và hành động một cách nhanh chóng và hiệu quả. Điều đó có nghĩa là nó có nhiều khả năng thành công trong việc điều phối kế hoạch của tất cả những người liên quan, và bằng cách đó làm gia tăng giá trị hơn bất kì hệ thống lập kế hoạch tập trung nào khác. Hệ thống lập kế hoạch tập trung không thể thu thập và xử lí nhiều thông tin đến như thế và nhanh đến như thế. 

Chủ nghĩa tư bản không dẫn đến độc quyền 

Người ta cũng thường phê phán cạnh tranh trên thương trường là nó dẫn tới chủ nghĩa tư bản độc quyền. Ví dụ, Marx nói rằng vì cạnh tranh thường xuyên đẩy các doanh nghiệp kém thành công ra khỏi thương trường, các doanh nghiệp còn lại sẽ lớn mãi lên, cho đến khi trong mỗi ngành chỉ còn lại một nhà sản xuất độc quyền mà thôi. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng đấy là điều vô nghĩa: thực tế khác hẳn. Mặc dù dễ nhìn thấy sự tăng trưởng của các công ti lớn, những công ti thành công, nhưng chúng ta cũng thường bỏ qua sự xuống dốc của những công ti cũng lớn chẳng khác gì những công ti kia và được thay thế bằng những công ti đang lên hay những công ti vừa bước vào thương trường. Thị trường không phải là quá trình tập trung hóa không thể nào tránh được, mà là liên tục chao đảo và thay đổi. 

Điều làm người ta lo ngại về độc quyền là các công ti giữ thế thượng phong thích đòi giá nào cũng được. Nhưng, ngay cả điều đó cũng không đúng. Họ luôn luôn bị những công ti có lẽ là nhỏ hơn, sáng tạo hơn đe dọa cạnh tranh. Tương tự, bao giờ cũng có những món hàng thay thế mà khách hàng có thể mua: ví dụ, thế thượng phong của các công ti đường sắt Mĩ đã bị các hãng hàng không phá vỡ. 

Khác với các công ti thương mại – những công ti này chỉ tồn tại được nếu họ tiếp tục phục vụ người tiêu dùng – các chính phủ có thể đơn giản là tự bỏ phiếu cho các công ti độc quyền của mình – như họ đã từng làm trong quá khứ, trong các lĩnh vực như muối, điện thoại, radio, ti vi và nhiều thứ khác. Hay họ tạo ra các công ti độc quyền bằng cách hạn chế người gia nhập một số ngành nghề thông qua giấy môn bài. Họ có thể biện bạch là cần bảo đảm an toàn cho xã hội –- ví dụ như để người dân không bị gặp các bác sĩ hay lái xe taxi không đủ trình độ. Nhưng các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng, thường thì tất cả những việc đó đều có động cơ chính trị. Môn bài là nguồn thu của chính quyền. Và môn bài sẽ giúp những người đã hành nghề trên thị trường – những người có nhiều của cải hơn và có thể có nhiều ảnh hưởng chính trị hơn – tránh được những đối thủ tiềm tàng. Rất ít tổng công ti (cartel) và công ti độc quyền từng xuất hiện, mà không được chính phủ hay những người có quyền lực chính trị giúp đỡ bằng cách bóp nghẹt cạnh tranh. Chủ nghĩa tư bản không có xu hướng dẫn tới độc quyền hay giá cả độc quyền; ngược lại, nó có xu hướng dẫn tới đa dạng và khác biệt, chất lượng tăng mà giá thì giảm. Các mô hình trong sách giáo khoa che giấu sự kiện này, nhưng đấy là điểm chính và là lợi ích lâu dài của cạnh tranh. 

Công lí và thị trường 

Hệ thống thị trường không phụ thuộc vào những người “làm việc tích cực” mà phụ thuộc vào việc họ tạo ra những món hàng mà người khác muốn – và theo những cách gây ra ít xung đột nhất với ước muốn của người khác. Phần thưởng của thị trường không phải là phần thưởng “công bằng” cho những cố gắng hay phẩm chất cá nhân, và thậm chí không phản ánh quy mô của khoản đầu tư đã được thực hiện – đôi khi người ta gặp được những sản phẩm với thành công lớn mà tốn rất ít thời gian và tiền bạc để phát triển. Thị trường chỉ tưởng thưởng cho giá trị mà mỗi người cung cấp được cho những người khác, dù đấy có là do may mắn, do đánh giá đúng hay làm việc chăm chỉ thì cũng thế. 

Một số nhà tư tưởng, như Karl Marx, đã áp dụng “lí thuyết giá trị lao động”, nói rằng giá trị của sản phẩm được xác định bởi lao động bỏ ra để làm ra nó (Ông sử dụng lí thuyết này để giải thích việc bóc lột của các nhà tư bản, những người dường như không bỏ nhiều sức lao động vào những hàng hoá mà họ sản xuất ra). Böhm-Bawerk và các nhà kinh tế học Trường phái Áo đáp lại rằng nói thế là hoàn toàn sai. Giá trị không phải là chất lượng tồn tại trong món hàng hay chất lượng mà nhà sản xuất đưa vào nó. Các nhà sản xuất có thể làm việc chăm chỉ, và đầu tư nhiều thời gian và công sức, và làm ra sản phẩm mà chẳng ai muốn mua. Giá trị là cái mà khách hàng hay người tiêu dùng nghĩ rằng có trong sản phẩm. Giá cả không phải là thước đo về thời gian và nỗ lực đã được đưa vào sản phẩm. Hoàn toàn ngược lại: Giá cả thông báo cho người sản xuất biết cần phải dùng bao nhiêu thời gian và sức lực để làm ra sản phẩm. Sản xuất không quyết định giá cả: Giá cả khuyến khích người sản xuất. 

Hệ thống thị trường không phải quá trình đã được kế hoạch hóa nhằm đạt được kết quả cụ thể nào đó. Vì vậy, chúng ta không bao giờ có thể dự đoán được mỗi người hay mỗi nhóm người cụ thể nào đó sẽ được mấy phần của cái phần thưởng mà sản phẩm sẽ mang lại. Một số người làm việc chăm chỉ có thể được tưởng thưởng rất ít, trong khi những người khác gặp may có thể kiếm được nhiều tiền. Nhưng trong hệ thống thị trường, quan trọng là phần của mỗi người sẽ là lớn nhất, có thể. Vì hệ thống thị trường chuyển một cách hiệu quả các nguồn lực đến nơi mà chúng tạo ra giá trị cao nhất cho xã hội, phần của mỗi cá nhân trong toàn bộ phần thưởng sẽ được phân phát với chi phí thấp nhất có thể.