Giới thiệu.
Trong Luận cương Liên bang số 80, Alexander Hamilton giải thích phạm vi quyền hạn của tư pháp liên bang theo Hiến pháp Hoa Kỳ. Tòa án liên bang xử lý các vụ việc liên quan đến luật quốc gia, hòa bình Liên bang, và các tranh chấp đòi hỏi sự vô tư như giữa các bang, giữa các cá nhân với các bang, hoặc với người nước ngoài, để đảm bảo công lý và thống nhất trong giải thích luật. Quyền này giúp thực thi các điều khoản Hiến pháp, ngăn chặn vi phạm từ các bang, và bảo vệ hòa bình quốc gia. Tòa án liên bang cũng có thẩm quyền công bằng để xử lý các vấn đề như gian lận hoặc hợp đồng bất công. Quốc hội có thể điều chỉnh các vấn đề phát sinh, đảm bảo hệ thống tư pháp mạnh mẽ và công bằng, phù hợp với lợi ích của một nền cộng hòa.
Bản dịch:
Từ Bản In McLEAN, New York.
Tác giả: Alexander Hamilton.
Kính Gửi Nhân Dân Bang New York:
Để đánh giá chính xác phạm vi phù hợp của quyền tư pháp liên bang, trước tiên cần xem xét các loại vụ việc mà hệ thống này nên đảm trách.
Quyền tư pháp của Liên bang cần bao quát các loại vụ việc sau:
1. Các vụ việc phát sinh từ luật pháp Hoa Kỳ được ban hành theo quyền lập pháp hợp hiến.
2. Các vụ việc liên quan đến việc thực thi các điều khoản được quy định rõ ràng trong Hiến pháp.
3. Các vụ việc có sự tham gia của Hoa Kỳ.
4. Các vụ việc ảnh hưởng đến hòa bình của Liên bang, bao gồm cả quan hệ với các quốc gia nước ngoài hoặc giữa các bang.
5. Các vụ việc xảy ra trên biển cả hoặc thuộc thẩm quyền luật hàng hải.
6. Các vụ việc mà tòa án bang có thể không được coi là công bằng và vô tư.
Điểm đầu tiên dựa trên một nhận thức rõ ràng rằng luôn cần có một cơ chế hợp hiến để thực thi một cách hiệu quả các điều khoản của hiến pháp. Ví dụ, sẽ có ích gì khi đặt ra các hạn chế đối với quyền lực của các cơ quan lập pháp tiểu bang nếu không có một phương thức hợp hiến để bảo đảm việc thực thi những hạn chế đó? Theo kế hoạch của hội nghị, các tiểu bang bị cấm thực hiện một số hành động, một số trong đó trái với lợi ích của Liên bang, trong khi số khác lại đi ngược lại với các nguyên tắc của một chính phủ tốt. Việc đánh thuế các mặt hàng nhập khẩu và phát hành tiền giấy là những ví dụ điển hình. Không ai có lý trí sẽ tin rằng những lệnh cấm này sẽ được tuân thủ nghiêm ngặt nếu không có quyền lực thực sự trong chính phủ để ngừng hoặc sửa chữa các vi phạm đó. Quyền lực này phải là khả năng phủ quyết trực tiếp các luật của tiểu bang, hoặc trao cho tòa án liên bang quyền hủy bỏ các luật vi phạm rõ ràng các điều khoản của Liên minh. Tôi không thể nghĩ ra lựa chọn nào khác. Hội nghị dường như đã chọn phương án thứ hai và tôi cho rằng đây sẽ là sự lựa chọn dễ được các tiểu bang chấp nhận hơn.
Về điểm thứ hai, không cần tranh luận thêm, bởi tính hợp lý của việc quyền tư pháp của một chính phủ phải tương xứng với quyền lập pháp của nó là hiển nhiên. Sự cần thiết phải đảm bảo tính thống nhất trong việc giải thích các đạo luật quốc gia đã tự mình trả lời câu hỏi này. Việc có mười ba tòa án độc lập với quyền xét xử cuối cùng về cùng một vấn đề, dựa trên cùng một bộ luật, sẽ tạo ra một con quái vật trong hệ thống chính phủ, từ đó chỉ có thể dẫn đến mâu thuẫn và hỗn loạn. Tòa án liên bang là cần thiết để đảm bảo sự thống nhất.
Điểm thứ ba ít cần giải thích. Các tranh chấp giữa Liên bang và các thành viên hoặc công dân của nó chỉ nên được giải quyết bởi các tòa án liên bang, vì bất kỳ phương thức nào khác đều không hợp lý và không phù hợp.
Điểm thứ tư dựa trên một nguyên tắc đơn giản rằng hòa bình của TOÀN BỘ đất nước không nên phụ thuộc vào quyết định của MỘT PHẦN của nó. Liên bang chắc chắn sẽ phải chịu trách nhiệm trước các quốc gia nước ngoài về hành động của các thành viên trong nước. Và việc chịu trách nhiệm đối với hành vi gây hại phải luôn đi kèm với quyền ngăn chặn nó. Vì việc từ chối hoặc xuyên tạc công lý, dù qua các bản án của tòa án hay bất kỳ hình thức nào khác, đều được xem là một nguyên nhân chính đáng để gây chiến, nên có thể kết luận rằng quyền lực tư pháp liên bang cần phải giải quyết tất cả các vụ án liên quan đến công dân nước ngoài. Điều này không chỉ quan trọng để duy trì niềm tin công chúng mà còn để bảo vệ sự ổn định quốc gia. Một số người có thể cho rằng có sự khác biệt giữa các vụ án liên quan đến các hiệp ước và luật pháp quốc tế và các vụ án chỉ áp dụng luật pháp địa phương. Các vụ án liên quan đến hiệp ước và luật quốc tế có thể thuộc thẩm quyền của liên bang, trong khi các vụ án khác có thể thuộc về tiểu bang. Tuy nhiên, điều này vẫn chưa rõ ràng, vì một bản án bất công đối với công dân nước ngoài, dù chỉ dựa trên luật pháp địa phương, nếu không được sửa chữa, có thể coi là một sự xâm phạm vào chủ quyền quốc gia của họ, cũng như việc vi phạm một hiệp ước hay luật quốc tế. Vấn đề lớn hơn nữa là việc phân biệt giữa hai loại vụ án này trong thực tế là rất khó khăn, nếu không muốn nói là không thể. Rất nhiều vụ án có sự tham gia của người nước ngoài đều liên quan đến các vấn đề quốc gia, vì vậy việc chuyển tất cả những vụ án như vậy đến các tòa án liên bang là giải pháp an toàn và hợp lý hơn.
Quyền lực để giải quyết các tranh chấp giữa hai tiểu bang, giữa một tiểu bang và công dân của tiểu bang khác, và giữa công dân của các tiểu bang khác nhau, có lẽ cũng không kém phần quan trọng đối với hòa bình của Liên bang như đã được bàn luận ở trên. Lịch sử cho chúng ta thấy một bức tranh khủng khiếp về những xung đột và các cuộc chiến tranh riêng lẻ đã làm xáo trộn và tàn phá nước Đức trước khi Maximilian lập ra Tòa án Đế chế vào cuối thế kỷ 15. Và đồng thời, lịch sử cũng cho biết về ảnh hưởng sâu rộng của tổ chức này trong việc làm dịu đi những rối loạn và thiết lập lại sự yên bình cho đế quốc. Đây là một tòa án có thẩm quyền quyết định cuối cùng tất cả các tranh chấp giữa các thành viên trong cộng đồng Đức.
Ngay cả trong hệ thống cũ, dù chưa hoàn thiện, cũng đã có một phương thức để giải quyết các tranh chấp lãnh thổ giữa các tiểu bang, dưới quyền lực của chính quyền liên bang. Tuy nhiên, còn có nhiều nguồn gốc khác, ngoài các yêu sách về biên giới, có thể gây ra những xung đột và hiềm khích giữa các thành viên trong Liên bang. Chúng ta đã chứng kiến một số trong những nguồn gốc này trong suốt quá trình trải nghiệm của mình. Có thể dễ dàng đoán được rằng tôi đang nói đến các đạo luật gian lận đã được thông qua ở quá nhiều tiểu bang. Mặc dù Hiến pháp đề xuất đã thiết lập các biện pháp bảo vệ cụ thể để ngăn chặn sự tái diễn của những trường hợp đã xảy ra trước đây, nhưng vẫn có lý do để lo ngại rằng tinh thần đã gây ra chúng sẽ xuất hiện dưới những hình thức mới mà chúng ta không thể dự đoán được hay có biện pháp ngăn chặn cụ thể. Mọi hành vi có xu hướng làm xáo trộn sự hòa hợp giữa các tiểu bang đều là những vấn đề cần được sự giám sát và kiểm soát của chính phủ liên bang.
Có thể coi là nền tảng của Liên bang rằng “công dân của mỗi tiểu bang sẽ được hưởng tất cả các quyền lợi và miễn trừ như công dân của các tiểu bang khác.” Và nếu đây là nguyên tắc công bằng rằng mỗi chính phủ PHẢI CÓ KHẢ NĂNG THI HÀNH CÁC QUY ĐỊNH CỦA MÌNH BẰNG QUYỀN LỰC CỦA CHÍNH NÓ, thì sẽ hợp lý rằng, để bảo vệ sự bình đẳng về quyền lợi và miễn trừ mà công dân của Liên bang sẽ được hưởng, hệ thống tòa án quốc gia nên xét xử tất cả các vụ án mà trong đó một tiểu bang hoặc công dân của tiểu bang đó đối đầu với tiểu bang hoặc công dân của tiểu bang khác. Để đảm bảo quy định quan trọng này được bảo vệ toàn diện khỏi mọi sự lẩn tránh hay gian lận, việc giải thích nó cần được giao cho một tòa án không có sự liên kết địa phương, để có thể công bằng giữa các tiểu bang và công dân của họ, và vì tòa án này chỉ tồn tại nhờ vào Liên bang, nên nó sẽ không có xu hướng thiên vị chống lại các nguyên tắc mà Liên bang được xây dựng trên đó.
Điểm thứ năm không cần nhiều sự bàn luận. Những người ủng hộ mạnh mẽ quyền lực của các tiểu bang cho đến nay cũng không có ý định bác bỏ thẩm quyền của tòa án quốc gia đối với các vụ án hàng hải. Những vụ án này thường dựa vào luật pháp quốc tế và thường liên quan đến quyền lợi của công dân nước ngoài, vì vậy chúng có ảnh hưởng đến hòa bình công cộng. Phần lớn các vụ án hàng hải quan trọng hiện nay đã thuộc thẩm quyền của liên bang theo Liên minh hiện tại.
Ở điểm thứ sáu, rõ ràng là tòa án quốc gia nên giải quyết các vụ án mà tòa án tiểu bang không thể bảo đảm được sự công bằng. Không ai nên là thẩm phán trong vụ án liên quan đến chính mình, hoặc trong bất kỳ vụ án nào mà họ có lợi ích riêng hoặc thiên kiến. Nguyên tắc này có trọng lượng không nhỏ trong việc chỉ định các tòa án liên bang là các tòa án thích hợp để giải quyết các tranh chấp giữa các tiểu bang khác nhau và công dân của họ. Nguyên tắc này cũng nên áp dụng đối với một số vụ án giữa các công dân của cùng một tiểu bang. Ví dụ, các yêu cầu về quyền sở hữu đất đai dựa trên các giấy cấp phát từ các tiểu bang khác nhau, với các yêu sách đối lập về ranh giới, thuộc vào loại này. Tòa án của bất kỳ tiểu bang cấp phát nào cũng không thể được mong đợi là công bằng. Các luật có thể đã đưa ra quyết định nghiêng về các yêu cầu của tiểu bang đó, hoặc ngay cả khi không có điều này, thì việc các thẩm phán có xu hướng nghiêng về các yêu cầu của chính phủ mình là điều tự nhiên.
Sau khi đã trình bày và thảo luận về các nguyên tắc cần thiết để điều chỉnh cấu trúc của tòa án liên bang, chúng ta sẽ tiến hành kiểm tra, dựa trên các nguyên tắc này, các quyền lực cụ thể mà theo kế hoạch của hội nghị, tòa án liên bang sẽ có. Tòa án liên bang sẽ có thẩm quyền đối với “tất cả các vụ án về pháp luật và công bằng phát sinh từ Hiến pháp, luật pháp của Hoa Kỳ và các hiệp ước đã được hoặc sẽ được ký kết dưới quyền hạn của Hoa Kỳ; các vụ án liên quan đến đại sứ, các viên chức ngoại giao và lãnh sự; các vụ án thuộc thẩm quyền hàng hải và biển cả; các tranh chấp mà Hoa Kỳ là một bên tham gia; các tranh chấp giữa hai hoặc nhiều tiểu bang; giữa một tiểu bang và công dân của tiểu bang khác; giữa công dân của các tiểu bang khác nhau; giữa công dân của cùng một tiểu bang khi yêu cầu đất đai và giấy cấp phát từ các tiểu bang khác nhau; và giữa một tiểu bang (hoặc công dân của tiểu bang đó) với các quốc gia, công dân hoặc đối tượng ngoại quốc.” Đây là toàn bộ quyền lực tư pháp của Liên bang. Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét chi tiết từng trường hợp này.
Thứ nhất, tòa án sẽ giải quyết tất cả các vụ án về pháp luật và công bằng phát sinh từ Hiến pháp và các luật của Hoa Kỳ. Điều này tương ứng với hai loại vụ án đầu tiên mà chúng ta đã đề cập là thuộc thẩm quyền của Hoa Kỳ. Có một câu hỏi được đặt ra rằng, “các vụ án phát sinh từ Hiến pháp” có gì khác biệt so với “các vụ án phát sinh từ các luật của Hoa Kỳ”? Sự khác biệt này đã được giải thích. Ví dụ, có những hạn chế đối với quyền hạn của các cơ quan lập pháp của tiểu bang, chẳng hạn như họ không được phép phát hành tiền giấy. Sự cấm đoán này xuất phát từ Hiến pháp, và không liên quan đến bất kỳ luật nào của Hoa Kỳ. Nếu một tiểu bang vẫn phát hành tiền giấy, các tranh chấp liên quan sẽ là các vụ án phát sinh từ Hiến pháp, chứ không phải từ các luật của Hoa Kỳ theo nghĩa thông thường của các thuật ngữ này. Ví dụ này có thể giúp làm rõ toàn bộ vấn đề.
Cũng có câu hỏi rằng, tại sao lại cần từ “công bằng”? Những vụ án công bằng nào có thể phát sinh từ Hiến pháp và các luật của Hoa Kỳ? Thực tế, gần như bất kỳ tranh chấp pháp lý nào giữa các cá nhân cũng có thể liên quan đến các yếu tố như gian lận, tai nạn, tín nhiệm hoặc khó khăn, điều này sẽ khiến vụ việc trở thành đối tượng của thẩm quyền công bằng thay vì thẩm quyền pháp lý — sự phân biệt này đã được công nhận và áp dụng ở một số tiểu bang. Ví dụ, tòa án công bằng có trách nhiệm giải quyết những vụ gọi là “hợp đồng khó khăn”: đây là những hợp đồng, mặc dù không có gian lận hoặc lừa dối trực tiếp đủ để vô hiệu hóa chúng trong tòa án pháp lý, nhưng có thể có một bên đã lợi dụng quá mức nhu cầu hoặc hoàn cảnh xấu của bên kia, điều mà tòa án công bằng sẽ không chấp nhận. Trong những trường hợp như vậy, nếu có sự tham gia của người nước ngoài, tòa án liên bang sẽ không thể thực thi công lý mà không có cả thẩm quyền công bằng và pháp lý. Một ví dụ khác có thể là các thỏa thuận về quyền sở hữu đất đai theo các giấy cấp phát từ các tiểu bang khác nhau, nơi thẩm quyền công bằng cũng là cần thiết. Lý lẽ này có thể không rõ ràng ở những tiểu bang mà sự phân biệt giữa pháp luật và công bằng không được duy trì rõ ràng, nhưng ở các tiểu bang như tiểu bang của chúng ta, sự phân biệt này là rõ ràng trong thực tiễn hàng ngày.
Quyền tài phán của Liên minh sẽ được mở rộng như sau:
Thứ hai: Các hiệp định được ký kết, hoặc sẽ được ký kết, dưới quyền lực của Hoa Kỳ, và các vụ án liên quan đến các đại sứ, các công chức ngoại giao khác và các lãnh sự. Các vụ án này thuộc vào nhóm thứ tư trong các loại vụ án đã được liệt kê, vì chúng có mối liên hệ rõ ràng với việc duy trì hòa bình quốc gia.
Thứ ba: Các vụ án liên quan đến quyền tài phán về hàng hải và tàu thuyền. Những vụ án này tạo thành nhóm thứ năm trong các loại vụ án mà các tòa án quốc gia có thể xét xử.
Thứ tư: Các vụ án mà Hoa Kỳ tham gia. Các vụ án này thuộc nhóm thứ ba trong những loại vụ án đã được liệt kê.
Thứ năm: Các tranh chấp giữa hai hoặc nhiều tiểu bang, giữa một tiểu bang và công dân của tiểu bang khác, và giữa công dân của các tiểu bang khác nhau. Các vụ án này thuộc nhóm thứ tư và có một số điểm tương đồng với nhóm cuối cùng.
Thứ sáu: Các vụ án giữa các công dân của cùng một tiểu bang, những người đang tranh chấp quyền sở hữu đất vốn được cấp phát bởi các tiểu bang khác nhau. Những vụ án này thuộc vào nhóm cuối cùng và là những trường hợp duy nhất mà trong đó Hiến pháp đã đề cập trực tiếp đến việc giải quyết tranh chấp giữa các công dân của cùng một tiểu bang.
Thứ bảy: Các vụ án giữa một tiểu bang và công dân của tiểu bang đó, với các tiểu bang nước ngoài, công dân hoặc chủ thể của các quốc gia khác. Những vụ án này đã được giải thích là thuộc nhóm thứ tư trong các loại vụ án và có tính chất đặc biệt phù hợp để được xử lý bởi tòa án quốc gia.
Qua việc xem xét các quyền hạn cụ thể của hệ thống tư pháp liên bang, như đã được quy định trong Hiến pháp, có thể nhận thấy rằng chúng hoàn toàn phù hợp với các nguyên tắc cần thiết để xây dựng bộ phận này, đồng thời là yếu tố quan trọng đối với sự hoàn thiện của hệ thống. Nếu một số bất tiện nhỏ có thể phát sinh từ việc đưa các quyền hạn này vào kế hoạch, chúng ta cần ghi nhớ rằng Quốc hội có đủ quyền hạn để đưa ra các NGOẠI LỆ và thiết lập các quy định nhằm khắc phục hoặc loại bỏ những bất tiện đó. Khả năng xảy ra những vấn đề nhỏ không bao giờ được coi, bởi một người có tri thức đầy đủ, là lý do hợp lý để phản bác một nguyên tắc chung, vốn được thiết kế để ngăn ngừa những vấn đề lớn hơn và mang lại lợi ích lâu dài hơn.
PUBLIUS
Nguyễn Huy Vũ dịch và giới thiệu.