Giới thiệu.
Trong luận cương Liên bang số 77, Alexander Hamilton giải thích cơ chế bổ nhiệm quan chức và các quyền hành pháp trong Hiến pháp Hoa Kỳ. Thượng viện đóng vai trò kiểm soát quyền đề cử của Tổng thống, đảm bảo sự ổn định và ngăn chặn sự bổ nhiệm thiên vị. So với hệ thống thiếu minh bạch ở New York, cơ chế liên bang rõ ràng hơn, giảm nguy cơ lạm quyền và âm mưu. Đề xuất đưa Hạ viện vào bổ nhiệm bị bác bỏ do tính không thực tế. Các quyền khác của Tổng thống, như đề xuất các biện pháp hay tiếp đại sứ, được thiết kế hợp lý. Hành pháp mạnh mẽ nhưng an toàn, với Tổng thống chịu trách nhiệm qua bầu cử, luận tội, và sự giám sát của Thượng viện, đáp ứng nhu cầu của một nền cộng hòa.
Bản dịch:
Từ New York Packet.
Thứ sáu, ngày 4 tháng 4 năm 1788.
Tác giả: Alexander Hamilton.
Kính Gửi Nhân Dân Bang New York:
Sự tham gia của Thượng viện trong việc bổ nhiệm quan chức được xem là một lợi thế, vì nó góp phần vào sự ổn định của chính quyền. Thượng viện phải đồng ý không chỉ khi bổ nhiệm mà còn khi thay thế quan chức. Do đó, việc thay đổi Tổng thống không dẫn đến sự thay đổi lớn hoặc toàn diện trong các vị trí quan chức như khi Tổng thống có toàn quyền bổ nhiệm. Nếu một quan chức đã chứng minh năng lực, Tổng thống mới sẽ bị kiềm chế trong việc thay thế bằng người ông ưa thích hơn, do lo ngại Thượng viện có thể bác bỏ, gây tổn hại đến danh tiếng của ông. Những người đánh giá cao giá trị của một chính quyền ổn định sẽ coi trọng quy định này, bởi Thượng viện, với thành phần ổn định hơn, ít có khả năng thay đổi thất thường so với các bộ phận khác của chính phủ.
Một số ý kiến cho rằng sự tham gia của Thượng viện trao cho Tổng thống ảnh hưởng quá mức đối với cơ quan này, trong khi những ý kiến khác cho rằng nó tạo ra ảnh hưởng ngược lại từ Thượng viện lên Tổng thống. Cả hai quan điểm đều không đúng.
Ý kiến rằng Tổng thống chi phối Thượng viện vì Thượng viện có quyền ngăn cản ông là một mâu thuẫn về logic. Nếu Tổng thống có toàn quyền bổ nhiệm mà không cần Thượng viện phê chuẩn, ông có thể dễ dàng thiết lập quyền lực nguy hiểm hơn nhiều đối với cơ quan này. Quyền đề cử, chịu sự kiểm soát của Thượng viện, là một cơ chế an toàn hơn.
Xét đến ý kiến ngược lại: liệu Thượng viện có thể chi phối Tổng thống? Lập luận này thiếu rõ ràng. Ảnh hưởng, theo nghĩa được sử dụng ở đây, thường ngụ ý mang lại lợi ích. Nhưng Thượng viện làm sao có thể mang lại lợi ích cho Tổng thống bằng cách bác bỏ đề cử của ông? Có thể đôi khi Thượng viện chấp thuận một lựa chọn ưa thích của Tổng thống dù có lựa chọn tốt hơn, nhưng những trường hợp này hiếm và không ảnh hưởng đáng kể đến ông. Quyền đề cử, khởi đầu quá trình, mạnh hơn quyền phủ quyết. Khả năng kiềm chế Tổng thống của Thượng viện là mục tiêu mong muốn, mang lại lợi ích mà không làm mất đi ưu điểm của quyền đề cử. Cơ chế này vượt trội so với hệ thống ở New York, nơi thống đốc đề cử và một hội đồng nhỏ, bí mật phê chuẩn. Trong hệ thống liên bang, đề cử của Tổng thống là công khai, trách nhiệm rõ ràng: Tổng thống chịu trách nhiệm về đề cử tồi, Thượng viện chịu trách nhiệm nếu bác bỏ ứng viên tốt, và cả hai cùng chịu trách nhiệm nếu bổ nhiệm sai lầm.
Ngược lại với tất cả những điều này là cách thức bổ nhiệm ở bang này. Hội đồng bổ nhiệm gồm từ ba đến năm thành viên, trong đó luôn bao gồm thống đốc. Nhóm nhỏ này, họp kín trong một phòng riêng biệt, không thể tiếp cận bởi công chúng, để thực hiện nhiệm vụ được giao. Người ta biết rằng thống đốc tuyên bố quyền bổ nhiệm dựa trên một số diễn đạt không rõ ràng trong hiến pháp, nhưng không rõ ông ta thực hiện quyền này như thế nào, ở mức độ nào, hay khi nào quyết định của ông bị phản đối. Việc chỉ trích một quyết định bổ nhiệm sai không có nhiều tác dụng vì không rõ ai là người chịu trách nhiệm và không có mục tiêu rõ ràng để quy trách nhiệm. Do đó, có nhiều không gian cho sự thao túng và mưu đồ, và khái niệm về trách nhiệm bị mất đi. Điều công chúng có thể chắc chắn biết là thống đốc tuyên bố quyền bổ nhiệm. Trong bốn người, hai người có thể dễ dàng bị tác động, và nếu một số thành viên trong hội đồng không đồng ý với thống đốc, họ có thể dễ dàng bị loại bỏ bằng cách sắp xếp các cuộc họp vào những thời điểm bất tiện. Vì vậy, nhiều quyết định bổ nhiệm không phù hợp thường xuyên xảy ra. Liệu thống đốc có sử dụng ảnh hưởng của mình để chọn những người có đủ năng lực cho các vị trí, hay thay vào đó, ông ta sử dụng quyền lực đó để bổ nhiệm những người trung thành với mình và ủng hộ một hệ thống quyền lực cá nhân nguy hiểm và đáng khinh, đó là những câu hỏi mà tiếc thay, công chúng chỉ có thể suy đoán và phỏng đoán.
Mọi hội đồng bổ nhiệm, bất kể cấu trúc như thế nào, đều sẽ là một cuộc họp nơi mà những thỏa thuận kín và mưu đồ có thể phát triển mạnh mẽ. Số lượng thành viên trong hội đồng không thể quá lớn mà không làm tăng chi phí không cần thiết, nhưng vẫn đủ nhỏ để các thành viên dễ dàng tạo ra những liên minh. Mỗi thành viên sẽ có những người bạn và những người ủng hộ riêng cần được quan tâm, dẫn đến việc mua bán phiếu bầu và các thỏa thuận về các vị trí. Trong khi lợi ích cá nhân của một người có thể dễ dàng được đáp ứng, việc thỏa mãn lợi ích của một tá người hoặc hơn nữa có thể dẫn đến sự tập trung phần lớn các vị trí quan trọng trong chính phủ vào tay một vài gia đình, và điều này sẽ dẫn đến một chế độ quý tộc hoặc tài phiệt nhanh chóng hơn bất kỳ biện pháp nào có thể đề xuất. Nếu để tránh sự tập trung quyền lực, hội đồng phải thay đổi thành viên thường xuyên, điều này sẽ chỉ tạo ra sự hỗn loạn của một bộ máy hành chính thay đổi liên tục. Một hội đồng như vậy cũng sẽ dễ bị ảnh hưởng bởi quyền lực hành pháp hơn so với Thượng viện, vì nó ít thành viên hơn và hành động ít chịu sự giám sát công khai. Tóm lại, hội đồng kiểu này, nếu thay thế hệ thống mà hội nghị đã đề xuất, sẽ làm tăng chi phí, gia tăng sự thiên vị và tham nhũng trong việc phân phối các chức vụ công, giảm tính ổn định của chính quyền, và giảm sự bảo vệ chống lại ảnh hưởng quá mức từ quyền hành pháp. Tuy nhiên, mặc dù có những tác hại này, hội đồng kiểu này vẫn được tranh luận mạnh mẽ như là một sự sửa đổi cần thiết trong Hiến pháp dự thảo.
Tôi không thể kết thúc những thảo luận của mình về vấn đề bổ nhiệm mà không đề cập đến một đề xuất, dù có ít người ủng hộ, nhưng vẫn tồn tại, đó là việc trao quyền bổ nhiệm cho Hạ viện. Tuy nhiên, tôi chỉ xin đề cập ngắn gọn đến vấn đề này, vì tôi không nghĩ rằng nó có thể nhận được sự ủng hộ rộng rãi từ công chúng. Một cơ quan vừa thay đổi thường xuyên lại vừa đông đảo như vậy, không bao giờ được xem là phù hợp để thực hiện quyền lực này. Sự không phù hợp này sẽ trở nên rõ ràng với mọi người khi nhớ rằng chỉ trong vòng năm mươi năm, Hạ viện có thể gồm ba hoặc bốn trăm người. Điều này sẽ làm mất đi mọi ưu điểm về sự ổn định của cả cơ quan Hành pháp và Thượng viện, đồng thời gây ra vô vàn sự trì hoãn và khó khăn. Ví dụ từ các bang trong các hiến pháp địa phương khuyến khích chúng ta bác bỏ ý tưởng này.
Những quyền lực còn lại của Tổng thống bao gồm cung cấp thông tin cho Quốc hội về tình hình Liên bang, đề xuất các biện pháp mà ông cho là cần thiết, triệu tập Quốc hội hoặc một trong các viện vào những dịp đặc biệt, giải quyết việc tạm ngừng họp khi Quốc hội không thể tự thỏa thuận được thời gian nghỉ, tiếp nhận các đại sứ và các quan chức ngoại giao khác, đảm bảo việc thi hành các đạo luật một cách trung thực, và bổ nhiệm tất cả các quan chức của Liên bang.
Ngoài một số phê phán nhỏ về quyền triệu tập một trong hai viện của Quốc hội và quyền tiếp nhận các đại sứ, không có sự phản đối nghiêm trọng nào đối với các quyền lực này, và cũng không thể có sự phản đối hợp lý nào. Thực sự, để tìm ra những ngoại lệ đối với những quyền này, người ta phải có một sự khát khao chỉ trích vô tận. Về quyền triệu tập một trong hai viện của Quốc hội, tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng, ít nhất là đối với Thượng viện, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy lý do hợp lý cho quyền này. Vì Thượng viện có quyền đồng hành cùng cơ quan Hành pháp trong việc ký kết các hiệp ước, nên đôi khi sẽ cần thiết phải triệu tập Thượng viện cho mục đích này, điều mà không cần thiết và không thích hợp khi triệu tập Hạ viện. Còn về quyền tiếp nhận các đại sứ, những gì tôi đã trình bày trong bài viết trước sẽ cung cấp một lời giải thích đầy đủ.
Chúng ta đã hoàn thành việc khảo sát cấu trúc và quyền lực của cơ quan Hành pháp, và như tôi đã cố gắng chỉ ra, nó kết hợp tất cả những yếu tố cần thiết để đảm bảo sự mạnh mẽ, trong phạm vi các nguyên tắc cộng hòa cho phép. Câu hỏi tiếp theo là: Liệu nó có đảm bảo được sự an toàn cần thiết trong hệ thống cộng hòa, với sự phụ thuộc thích hợp vào nhân dân và trách nhiệm rõ ràng không? Câu trả lời cho câu hỏi này đã được dự liệu trong phần khảo sát các đặc điểm khác của nó, và có thể rút ra một cách rõ ràng từ các điểm sau: Tổng thống được bầu cứ mỗi bốn năm một lần bởi những người được lựa chọn đặc biệt cho mục đích này; Tổng thống luôn có thể bị luận tội, xét xử, cách chức, bị ngừng đảm nhận các chức vụ khác và thậm chí phải đối mặt với các cáo buộc hình sự có thể dẫn đến việc tịch thu tài sản và sinh mạng. Tuy nhiên, những biện pháp phòng ngừa này, dù rất quan trọng, không phải là những biện pháp duy nhất mà kế hoạch của hội nghị đã đưa ra nhằm đảm bảo an ninh công cộng. Trong những trường hợp mà lạm dụng quyền lực hành pháp có thể xảy ra, Tổng thống sẽ phải chịu sự giám sát từ một nhánh của cơ quan lập pháp. Một người dân hiểu biết và lý trí còn có thể yêu cầu điều gì hơn nữa?
PUBLIUS
Nguyễn Huy Vũ dịch và giới thiệu.