Luận cương Liên bang số 75: Quyền lập hiệp ước của cơ quan hành pháp

Giới thiệu.

Trong Luận cương Liên bang số 75, Alexander Hamilton bảo vệ quy định trong Hiến pháp Hoa Kỳ nhằm trao quyền cho Tổng thống và Thượng viện cùng làm hiệp ước — vốn yêu cầu sự chấp thuận của hai phần ba số thượng nghị sĩ có mặt. Hamilton lập luận rằng quyền lực chung này đảm bảo sự cân bằng giữa sự lãnh đạo mạnh mẽ của hành pháp và sự giám sát cần thiết từ lập pháp. Ông phản đối các quan điểm cho rằng Tổng thống nên có quyền độc quyền lập hiệp ước hay Thượng viện nên tự quyết định về các hiệp ước, nhấn mạnh rằng bản chất của các hiệp ước đòi hỏi sự tham gia của cả hai nhánh quyền lực. Hamilton cũng cảnh báo về việc trao quyền này cho một Tổng thống được bầu, vì điều này có thể dẫn đến tham nhũng, và bác bỏ ý tưởng cho phép Hạ viện tham gia vì kích thước và tính không ổn định của cơ quan này. Cuối cùng, Hamilton kết luận rằng quyền lực chung này là biện pháp bảo vệ tốt nhất cho lợi ích quốc gia trong các vấn đề đối ngoại.

Bản dịch:

Dành cho Independent Journal.
Tác giả: Alexander Hamilton.

Kính Gửi Nhân Dân Bang New York:

Tổng thống được trao quyền ký kết các hiệp ước với sự tư vấn và đồng ý của Thượng viện, với điều kiện hai phần ba các thượng nghị sĩ có mặt đồng ý.

Mặc dù điều khoản này đã bị chỉ trích từ nhiều góc độ khác nhau một cách khá mạnh mẽ, tôi không ngần ngại tuyên bố rằng tôi hoàn toàn tin tưởng đây là một trong những phần tốt nhất và không có gì phải phê phán trong kế hoạch. Một lý do phản đối là vấn đề pha trộn quyền lực; một số người cho rằng Tổng thống nên là người duy nhất có quyền ký kết hiệp ước, trong khi những người khác lại cho rằng quyền này nên chỉ được giao cho Thượng viện. Một lý do khác để phản đối là số lượng người có thể tham gia vào việc ký kết một hiệp ước quá ít. Trong số những người phản đối, một phần cho rằng Hạ viện cũng nên tham gia vào quá trình này, trong khi một phần khác lại cho rằng nên yêu cầu hai phần ba của TẤT CẢ các thành viên Thượng viện, thay vì chỉ hai phần ba của các thành viên CÓ MẶT. Tôi tự tin rằng những quan điểm đã trình bày trong một bài trước đã đủ để làm sáng tỏ vấn đề này, vì vậy tôi sẽ chỉ đưa ra một vài nhận xét bổ sung, chủ yếu là nhằm giải đáp những phản đối vừa nêu.

Về việc trộn lẫn quyền lực, tôi đã giải thích trong các bài viết trước rằng việc chia sẻ quyền lực giữa Tổng thống và Thượng viện là hợp lý và không gây ra vấn đề gì. Trên thực tế, sự kết hợp này là hợp lý với tính chất của việc ký kết hiệp ước. 

Mặc dù một số nhà nghiên cứu về chính phủ xếp quyền này vào nhóm quyền hành pháp, nhưng đây rõ ràng là một sự phân loại tùy ý, bởi nếu chúng ta xem xét kỹ lưỡng cách thức quyền này hoạt động, sẽ thấy rằng nó mang tính chất lập pháp hơn là hành pháp, dù không hoàn toàn thuộc về định nghĩa của cả hai quyền này. 

Bản chất của quyền lập pháp là ban hành luật, hay nói cách khác là quy định các quy tắc để điều chỉnh xã hội; trong khi việc thi hành luật và sử dụng sức mạnh chung, cho mục đích này hoặc bảo vệ quốc gia, là các chức năng của quyền hành pháp. Quyền ký kết hiệp ước rõ ràng không phải là quyền lập pháp hay hành pháp. Nó không liên quan đến việc thi hành các luật hiện hành, cũng không liên quan đến việc ban hành luật mới, và càng không phải là việc sử dụng sức mạnh chung. Mục đích của quyền này là các hợp đồng với các quốc gia khác, có giá trị như luật, nhưng dựa trên nghĩa vụ của lòng tin. Đây không phải là các quy tắc do quốc gia ban hành cho công dân, mà là thỏa thuận giữa các quốc gia. Do đó, quyền ký kết hiệp ước có vẻ là một lĩnh vực riêng biệt, không thuộc về quyền lập pháp hay hành pháp. 

Những phẩm chất đã được trình bày ở các phần trước, vốn cần thiết trong việc quản lý các cuộc đàm phán đối ngoại, cho thấy quyền hành pháp là phù hợp nhất để thực hiện nhiệm vụ này; trong khi tầm quan trọng lớn lao của trách nhiệm này, và việc các hiệp ước có tác dụng như các luật, là lý do mạnh mẽ để ủng hộ cho việc tham gia của toàn bộ hoặc một phần cơ quan lập pháp trong việc ký kết chúng.

Dù việc giao toàn bộ quyền ký kết hiệp ước cho một vị vua kế thừa trong các chính phủ có thể là hợp lý và an toàn, nhưng việc trao quyền đó cho một quan chức được bầu có nhiệm kỳ bốn năm là hoàn toàn không an toàn và không thích hợp. Như đã được nhận xét ở một dịp khác, và nhận xét này hoàn toàn đúng, rằng một vị vua kế thừa, mặc dù thường là người áp bức dân chúng, nhưng lại có quá nhiều lợi ích cá nhân gắn liền với chính phủ, nên khó có thể bị ngoại bang mua chuộc. Tuy nhiên, một người từ vị trí công dân bình thường được nâng lên làm quan chức tối cao, có tài sản vừa phải hoặc ít ỏi, và biết rằng trong một thời gian không xa, ông ta có thể phải quay lại với cuộc sống trước đây, có thể sẽ phải đối mặt với cám dỗ hy sinh nghĩa vụ vì lợi ích cá nhân, điều này đòi hỏi một đức hạnh cực kỳ vĩ đại để vượt qua. Một người tham lam có thể bị cám dỗ phản bội lợi ích quốc gia để kiếm lợi cá nhân. Một người tham vọng có thể sẵn sàng dùng sự giúp đỡ của một cường quốc nước ngoài để làm giá cho sự phản bội đối với người dân mình. Lịch sử hành động của con người không ủng hộ quan điểm cao siêu về đức hạnh con người đến mức khiến một quốc gia giao phó những lợi ích quan trọng và nhạy cảm như vậy, liên quan đến quan hệ quốc tế, cho một quan chức được bầu và có hoàn cảnh như Tổng thống Hoa Kỳ.

Nếu chỉ giao quyền ký kết hiệp ước cho Thượng viện, thì sẽ là từ bỏ lợi ích của việc có Tổng thống tham gia vào các cuộc đàm phán ngoại giao. Đúng là trong trường hợp đó, Thượng viện có thể lựa chọn sử dụng Tổng thống cho nhiệm vụ này, nhưng họ cũng có thể chọn không làm vậy, và sự thù địch hoặc âm mưu có thể khiến họ chọn phương án sau thay vì phương án trước. Hơn nữa, một quan chức làm việc cho Thượng viện sẽ không được các quốc gia ngoại giao tin tưởng và tôn trọng như những đại diện chính thức của quốc gia, và do đó, không thể hoạt động với sức mạnh và hiệu quả như vậy.Khi đó, Liên bang sẽ mất đi một lợi thế lớn trong việc quản lý các mối quan hệ quốc tế, và người dân sẽ không nhận được sự bảo vệ thêm vốn có được nhờ ở việc hợp tác của người đứng đầu hành pháp. Mặc dù việc chỉ giao toàn bộ trách nhiệm này cho Tổng thống là không khôn ngoan, nhưng không thể nghi ngờ rằng sự tham gia của ông ấy sẽ góp phần lớn vào sự an toàn của xã hội. Thật sự rõ ràng rằng quyền lực này nếu được chia sẻ giữa Tổng thống và Thượng viện sẽ mang lại mức độ bảo đảm an toàn cao hơn so với khi mỗi bên sở hữu độc lập. Và bất kỳ ai đã cân nhắc kỹ lưỡng các yếu tố cần thiết để bầu ra một Tổng thống, sẽ thấy rằng chức vụ này sẽ luôn được đảm nhận bởi những người có phẩm chất đủ để khiến sự đồng thuận của họ trong việc ký kết hiệp ước là vô cùng quan trọng, cả về sự khôn ngoan lẫn tính liêm chính.

Những quan điểm được đưa ra trong các phần trước của bài viết này mạnh mẽ chứng minh rằng việc cho phép Hạ viện tham gia vào quá trình ký kết hiệp ước là không hợp lý. Sự thay đổi liên tục và quy mô ngày càng lớn của Hạ viện khiến chúng ta không thể kỳ vọng vào những phẩm chất cần thiết cho một nhiệm vụ quan trọng như vậy. Kiến thức sâu rộng về chính trị đối ngoại, sự nhất quán trong quan điểm, khả năng nhạy bén với đặc điểm quốc gia, cùng những phẩm chất như khả năng ra quyết định, TÍNH BÍ MẬT và sự hiệu quả đều không phù hợp với bản chất của một cơ quan vừa đông đảo vừa thay đổi liên tục. Việc yêu cầu sự đồng thuận từ nhiều cơ quan khác nhau đã là một vấn đề phức tạp, tự nó đã là một lý do vững chắc để phản đối. Hơn nữa, Hạ viện sẽ bị gọi họp quá thường xuyên và sẽ phải duy trì các kỳ họp dài để phê duyệt các giai đoạn khác nhau của một hiệp ước, điều này sẽ gây ra sự bất tiện và chi phí không cần thiết, đủ để bác bỏ đề xuất này.

Sự phản đối duy nhất còn lại là đề xuất yêu cầu hai phần ba số thành viên của Thượng viện, thay vì hai phần ba số thành viên có mặt. Như đã được giải thích trước đó, bất kỳ quy định nào yêu cầu một tỷ lệ lớn hơn đa số đơn giản để ra quyết định đều có xu hướng làm chậm tiến trình hoạt động của chính phủ và thường khiến thiểu số có quyền lực lớn hơn mức hợp lý. Điều này đủ để hỗ trợ quan điểm của chúng tôi rằng những người lập hiến đã làm mọi thứ có thể để đảm bảo các lợi ích từ việc có đủ số lượng tham gia vào việc ký kết hiệp ước, đồng thời vẫn cho phép chính phủ hoạt động hiệu quả và tôn trọng ý chí của đa số. Nếu yêu cầu hai phần ba tất cả các thành viên, thì trong nhiều trường hợp, do sự vắng mặt của một số người, quy định này sẽ thực tế đẩy yêu cầu đến sự đồng thuận tuyệt đối. Lịch sử của mọi chính thể đã áp dụng nguyên tắc này đều là câu chuyện về sự yếu kém, bối rối và hỗn loạn. Chúng ta có thể đưa ra ví dụ từ các thể chế như Quản trị của La Mã, Quốc hội Ba Lan và Đại hội các tỉnh Hà Lan, nhưng một ví dụ trong nước đã khiến những tiền lệ nước ngoài trở nên không cần thiết.

Yêu cầu một tỷ lệ cố định từ toàn thể cơ quan có thể không tạo ra thêm nhiều lợi ích cho một cơ quan đông đảo, hơn là chỉ yêu cầu một tỷ lệ trong số các thành viên có mặt. Yêu cầu trước, bằng cách yêu cầu một số lượng nhất định luôn luôn có mặt để ra quyết định, sẽ làm giảm động lực tham gia đúng giờ. Yêu cầu sau, bằng cách làm cho khả năng ra quyết định phụ thuộc vào một TỶ LỆ có thể thay đổi tùy theo sự có mặt hay vắng mặt của từng thành viên, lại có tác dụng ngược lại. Và vì nó thúc đẩy sự đúng giờ, nó sẽ giữ cho cơ quan này luôn đủ thành viên, điều này có thể đảm bảo rằng các quyết định của họ sẽ thường xuyên được đưa ra bởi một số lượng tương đương như trong trường hợp trước, nhưng lại ít bị trì hoãn hơn. Không nên quên rằng, theo Hiệp ước Liên bang hiện tại, hai thành viên CÓ THỂ và thường THAM GIA đại diện cho một tiểu bang; vì vậy, Quốc hội, hiện nay nắm giữ TOÀN BỘ QUYỀN LỰC của Liên bang, hiếm khi bao gồm nhiều người hơn so với số thành viên của Thượng viện theo dự định của Hiến pháp mới. Nếu thêm vào đó việc các thành viên bỏ phiếu theo tiểu bang và khi chỉ có một thành viên từ một tiểu bang có mặt, phiếu của họ sẽ bị mất, điều này có thể giúp ta suy luận rằng các phiếu bầu chủ động trong Thượng viện, nơi các thành viên sẽ bỏ phiếu cá nhân, hiếm khi thiếu số lượng so với các phiếu bầu hiện tại trong Quốc hội. Khi cộng thêm những yếu tố này, và nhìn vào sự hợp tác của Tổng thống, ta có thể kết luận rằng người dân Mỹ sẽ có sự bảo vệ tốt hơn chống lại việc lạm dụng quyền lực ký kết hiệp ước theo Hiến pháp mới, hơn là dưới Hiệp ước Liên bang hiện tại. Và khi tiến thêm một bước nữa, nhìn vào khả năng gia tăng số lượng thành viên của Thượng viện với sự hình thành các tiểu bang mới, chúng ta sẽ thấy rằng không chỉ có cơ sở vững chắc để tin tưởng vào sự đủ số lượng của những thành viên có quyền hạn ký kết hiệp ước, mà còn có khả năng chúng ta sẽ kết luận rằng một cơ quan lớn hơn Thượng viện dự kiến sẽ không đủ khả năng để thực hiện trách nhiệm này một cách đúng đắn.

PUBLIUS

Nguyễn Huy Vũ dịch và giới thiệu.


Đăng ngày

trong