Giới thiệu.
Trong Luận cương Liên bang số 71, Alexander Hamilton phân tích mối quan hệ giữa thời gian tại nhiệm và hiệu quả của quyền lực hành pháp, nhấn mạnh rằng thời gian tại nhiệm dài giúp tổng thống có sự quyết đoán và ổn định, từ đó nâng cao khả năng thực thi quyền lực và bảo vệ lợi ích lâu dài của công chúng. Tác giả cũng lập luận rằng mặc dù hành pháp cần chú ý đến ý chí của công chúng, nhưng không nên phục tùng các cảm xúc hoặc lợi ích tạm thời, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì tính độc lập của hành pháp trong mối quan hệ với cơ quan lập pháp, bảo vệ nguyên lý phân chia quyền lực trong hệ thống chính trị.
Bản dịch:
Từ The New York Packet.
Thứ ba, ngày 18 tháng 3, năm 1788.
Tác giả: Alexander Hamilton
Thời gian tại nhiệm đã được đề cập như điều kiện thứ hai để bảo đảm hiệu quả của quyền lực hành pháp. Yếu tố này ảnh hưởng đến hai đặc điểm quan trọng của quyền hành pháp: một là mức độ quyết đoán của người đứng đầu hành pháp trong việc sử dụng các quyền lực được Hiến pháp trao cho; và hai là tính ổn định của hệ thống hành chính có thể đã được thiết lập dưới sự lãnh đạo của người đó. Xét về đặc điểm đầu tiên, rõ ràng rằng thời gian tại nhiệm càng dài thì khả năng đạt được phẩm chất quan trọng này càng cao.
Đây là một nguyên lý phổ quát trong bản chất con người: mức độ quan tâm của một người đối với những gì mình sở hữu sẽ tỷ lệ thuận với tính chất lâu dài hay tạm thời của quyền sở hữu đó. Người ta sẽ ít gắn bó với vị trí mà họ nắm giữ bởi một danh vị ngắn hạn và không chắc chắn, hơn là vị trí mà họ sở hữu với một danh vị dài hạn và ổn định — và dĩ nhiên, họ cũng sẽ sẵn sàng chấp nhận rủi ro nhiều hơn để bảo vệ cái sau so với cái trước. Nguyên lý này cũng áp dụng một cách tương đương đối với các đặc quyền chính trị, danh dự hay sự ủy thác, giống như với bất kỳ loại tài sản thông thường nào.
Hàm ý đối với chúng ta là: nếu một người giữ cương vị tổng chấp chính biết rằng trong một thời gian rất ngắn ông ta sẽ phải rời nhiệm sở, thì ông ta sẽ khó có đủ sự gắn bó cần thiết để dám chấp nhận sự phản đối hay hiểu lầm nghiêm trọng có thể phát sinh từ việc sử dụng độc lập các quyền hạn của mình. Và ông ta cũng sẽ do dự trong việc khơi dậy sự bất mãn — dù chỉ là tạm thời — có thể phát sinh từ một bộ phận đáng kể trong xã hội, hoặc từ một phe phái chi phối trong cơ quan lập pháp.
Nếu tình huống chỉ là tổng thống CÓ THỂ từ bỏ chức vụ của mình, trừ khi được tái cử qua một cuộc bầu chọn mới, và nếu ông ta mong muốn được tiếp tục tại vị, thì những khao khát của ông, kết hợp với nỗi sợ hãi mất chức, sẽ càng mạnh mẽ hơn trong việc làm tha hóa phẩm chất đạo đức của ông hoặc làm suy giảm lòng dũng cảm của ông. Trong cả hai trường hợp, sự yếu đuối và thiếu quyết đoán chắc chắn sẽ trở thành những đặc điểm nổi bật của chức vụ này.
Có những người có xu hướng coi sự tuân phục của hành pháp trước ý kiến phổ biến—dù trong cộng đồng hay trong cơ quan lập pháp—là đặc điểm ưu việt nhất của nó. Tuy nhiên, những người này có nhận thức rất sơ sài về mục tiêu của chính quyền cũng như các phương tiện để thúc đẩy hạnh phúc công cộng. Nguyên tắc cộng hòa quả thực đòi hỏi rằng ý chí chín chắn của cộng đồng phải định hướng hành vi của những người được ủy thác điều hành các công việc của họ. Tuy vậy, nguyên tắc này không đòi hỏi phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt mọi làn sóng cảm xúc bốc đồng hay mọi xung lực nhất thời có thể được gieo rắc vào lòng dân chúng bởi những kẻ nịnh bợ nhằm phản bội lợi ích chân chính của họ.
Đúng là nhân dân thường hướng đến LỢI ÍCH CÔNG. Điều này vẫn thường đúng ngay cả khi họ mắc sai lầm. Tuy nhiên, với sự minh triết của mình, họ sẽ khinh miệt kẻ nịnh bợ nào dám giả vờ rằng họ luôn suy luận đúng đắn về các phương tiện để đạt được mục tiêu ấy.
Nhân dân, từ kinh nghiệm thực tiễn, hiểu rằng họ đôi khi vẫn mắc sai lầm; và thật đáng kinh ngạc nếu họ lại hiếm khi sai, khi xét đến sự lừa dối không ngừng của những kẻ ký sinh và nịnh bợ, các mưu mẹo của những kẻ đầy tham vọng, kẻ tham lam và kẻ tuyệt vọng, cùng với những toan tính của các chính trị gia — những kẻ đang hoặc tìm cách giành được lòng tin của nhân dân mà hoàn toàn không xứng đáng với điều đó.
Khi xuất hiện những tình huống mà lợi ích chân chính và lâu dài của nhân dân mâu thuẫn với các sở thích ngắn hạn của họ, thì nghĩa vụ của các chính khách là phải kiên định trước sự ảo tưởng nhất thời ấy, nhằm tạo điều kiện cho nhân dân có thời gian và cơ hội để suy xét một cách bình tĩnh và cẩn trọng hơn. Đã từng có những minh chứng cho thấy việc thực thi nghĩa vụ này đã giúp nhân dân tránh khỏi những hậu quả nghiêm trọng do chính sai lầm của họ gây ra, đồng thời khiến họ ghi nhớ mãi lòng biết ơn đối với những chính khách đã có đủ dũng khí và tầm nhìn để phụng sự họ, ngay cả khi phải đối mặt với sự phản đối hoặc phẫn nộ của chính họ.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta nhất quyết đòi hỏi hành pháp phải tuân theo ý kiến của công chúng, thì cũng không nên lập luận rằng hành pháp phải phục tùng tương tự trước các quan điểm đang chiếm ưu thế trong cơ quan lập pháp. Những quan điểm đó đôi khi có thể đối lập với dư luận xã hội, và trong những trường hợp khác, nhân dân có thể hoàn toàn trung lập đối với chúng. Trong cả hai tình huống, điều chắc chắn đáng mong đợi là hành pháp phải cảm thấy có đủ quyền hạn để hành động theo quan điểm riêng của mình một cách mạnh mẽ và dứt khoát.
Nguyên tắc quy định sự phân chia giữa các nhánh quyền lực trong chính quyền cũng đồng thời đòi hỏi rằng sự phân chia này phải được thiết kế sao cho mỗi nhánh có tính độc lập đối với các nhánh còn lại. Nếu quyền hành pháp hoặc tư pháp được tách khỏi lập pháp nhưng lại được thiết kế theo cách khiến chúng bị lệ thuộc vào nhánh lập pháp, thì sự phân chia ấy chỉ là hình thức, không có khả năng thực hiện những mục tiêu vì đó mà nó được thiết lập. Việc phục tùng pháp luật là một chuyện, còn việc phục tùng cơ quan lập pháp lại là chuyện khác. Trường hợp thứ nhất phù hợp với các nguyên tắc nền tảng của một chính quyền tốt; còn trường hợp thứ hai thì vi phạm những nguyên tắc ấy, vì nó hợp nhất mọi quyền lực vào trong một thực thể duy nhất.
Xu hướng của cơ quan lập pháp trong việc thâu tóm mọi quyền lực khác đã được giải thích đầy đủ và chứng minh qua các ví dụ trong những bài luận trước. Trong các chính thể cộng hòa thuần túy, xu hướng này gần như không thể cưỡng lại. Những đại diện của nhân dân trong các cơ quan lập pháp thường có lúc cho rằng họ chính là nhân dân. Vì lý do đó, họ có xu hướng mất kiên nhẫn và cảm thấy phẫn nộ trước bất kỳ dấu hiệu phản đối nào từ các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước, như thể việc thực thi quyền hành pháp hoặc tư pháp là một sự xâm phạm đặc quyền lập pháp và là hành động xúc phạm đến phẩm giá của họ. Họ thường tỏ ra sẵn sàng áp đặt quyền kiểm soát một cách ngạo mạn lên các cơ quan khác, và bởi vì họ thường có được sự ủng hộ từ quần chúng, nên họ hành động với một động lực lớn đến mức khiến các bộ phận còn lại của chính phủ rất khó duy trì được sự cân bằng theo hiến pháp.
Có thể có người đặt câu hỏi: Làm sao nhiệm kỳ ngắn của cơ quan hành pháp lại có thể ảnh hưởng đến tính độc lập của nó đối với cơ quan lập pháp, nếu như cơ quan này không có quyền bổ nhiệm hoặc bãi nhiệm cơ quan kia? Một câu trả lời cho vấn đề này có thể được rút ra từ nguyên lý đã được đề cập trước đó — đó là, con người thường ít quan tâm đến những lợi ích ngắn hạn, và những lợi ích đó cũng không tạo ra đủ động lực để họ chấp nhận những bất tiện lớn hay mạo hiểm nghiêm trọng. Một câu trả lời khác, có lẽ rõ ràng hơn dù không thuyết phục hơn, xuất phát từ việc xem xét ảnh hưởng của cơ quan lập pháp đối với quần chúng. Ảnh hưởng này có thể bị lợi dụng nhằm ngăn cản việc tái cử của một cá nhân, người mà hành động dũng cảm chống lại bất kỳ âm mưu sai trái nào của cơ quan lập pháp và đã khiến ông ta trở thành đối tượng của sự phẫn nộ từ phía họ.
Người ta cũng có thể đặt câu hỏi rằng liệu một nhiệm kỳ bốn năm có đủ để đạt được mục tiêu về sự quyết đoán và tính độc lập hay không. Và nếu không đủ, thì cũng có thể đặt vấn đề rằng liệu một nhiệm kỳ ngắn hơn, vốn sẽ mang lại một sự an toàn cao hơn trước những mưu đồ tham vọng của nhánh hành pháp, có phải là lựa chọn đáng ưu tiên hơn hay không.
Không thể khẳng định rằng nhiệm kỳ bốn năm, hay bất kỳ khoảng thời gian nào khác, có thể hoàn toàn đạt được mục tiêu đã đề ra. Tuy nhiên, nó sẽ góp phần thực hiện mục tiêu đó ở một mức độ đủ lớn để tạo ra ảnh hưởng đáng kể đến tinh thần và tính chất của bộ máy chính quyền. Giữa thời điểm bắt đầu và kết thúc nhiệm kỳ bốn năm, sẽ tồn tại một khoảng thời gian đủ dài để viễn cảnh rời nhiệm sở còn xa, và do đó không gây tác động tiêu cực đến hành vi của một người có lòng can đảm vừa phải. Trong khoảng thời gian này, ông ta có thể suy nghĩ một cách hợp lý rằng mình sẽ có đủ thời gian để thuyết phục cộng đồng về tính chất có lợi của các biện pháp mà ông muốn theo đuổi trước khi phải rời nhiệm sở. Mặc dù có khả năng rằng khi thời điểm tái cử đến gần, sự tự tin và quả quyết của ông ta sẽ suy giảm, thì cả hai phẩm chất đó vẫn có thể được củng cố bởi sự tín nhiệm và thiện cảm mà ông ta đã có cơ hội giành được từ cử tri của mình. Khi đó, ông ta có thể theo đuổi các dự án quan trọng với mức độ tự tin tương ứng với những bằng chứng đã thể hiện về trí tuệ và sự liêm chính của mình, cũng như sự tôn trọng và gắn bó mà ông đã gây dựng được từ phía công chúng. Vì vậy, nhiệm kỳ bốn năm sẽ đóng góp một cách đáng kể vào sự quả quyết và tính độc lập của cơ quan hành pháp, khiến nó trở thành một yếu tố hết sức giá trị trong cấu trúc của chức vụ này.
Và nhiệm kỳ này cũng sẽ không quá dài đến mức làm dấy lên những lo ngại chính đáng về tự do của công chúng. Hạ viện Anh, từ khởi đầu hết sức khiêm tốn—khi chỉ có quyền chấp thuận hay phản đối các sắc thuế mới—đã nhanh chóng thu hẹp quyền lực của nhà vua và đặc quyền của giới quý tộc trong giới hạn mà họ cho là phù hợp với các nguyên tắc của một chính quyền tự do. Đồng thời, họ cũng đã nâng mình lên vị thế và tầm ảnh hưởng ngang hàng với một nhánh lập pháp đồng quyền. Họ đã từng, trong một trường hợp, xóa bỏ cả chế độ quân chủ và tầng lớp quý tộc, lật đổ toàn bộ các thiết chế truyền thống trong cả Giáo hội và Nhà nước. Gần đây, họ thậm chí có thể khiến nhà vua phải run sợ trước nguy cơ bị thay thế. Với tiền lệ như vậy, chúng ta có lý do gì để lo sợ một viên chức do dân bầu, có nhiệm kỳ bốn năm và nắm giữ quyền lực giới hạn như Tổng thống Hoa Kỳ? “Chúng ta còn phải sợ điều gì, ngoài khả năng rằng ông ta có thể không đủ năng lực để thực thi những nhiệm vụ mà Hiến pháp đã giao phó?” Tôi chỉ xin nói thêm rằng: nếu độ dài nhiệm kỳ khiến ta nghi ngờ về sự quả quyết và tính độc lập của ông ta, thì sự nghi ngờ ấy lại mâu thuẫn với nỗi sợ rằng ông ta sẽ lạm dụng quyền lực.
Nguyễn Huy Vũ biên dịch và giới thiệu.