Tác giả: Henry Hazlitt.
Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.
Trong số tất cả các ảo tưởng kinh tế, có lẽ không có ảo tưởng nào bền bỉ hơn niềm tin rằng máy móc về tổng thể gây ra thất nghiệp. Dù đã bị bác bỏ hàng ngàn lần, niềm tin ấy vẫn luôn hồi sinh từ đống tro tàn của chính nó, mạnh mẽ và dai dẳng hơn bao giờ hết. Bất cứ khi nào có tình trạng thất nghiệp hàng loạt kéo dài, máy móc lại bị đổ lỗi. Ngụy biện này vẫn là cơ sở cho nhiều hoạt động của công đoàn lao động. Công chúng dung túng cho những hoạt động này, bởi vì hoặc là họ thực sự tin rằng các công đoàn đúng, hoặc là họ quá bối rối nên không thấy được lý do tại sao họ sai.
Niềm tin cho rằng máy móc gây ra tình trạng thất nghiệp, nếu được duy trì một cách nhất quán về mặt logic, sẽ dẫn đến những kết luận phi lý. Không những chúng ta phải cho rằng mọi tiến bộ công nghệ hiện nay đều đang gây ra thất nghiệp, mà con người thời nguyên thủy hẳn cũng đã bắt đầu gây ra thất nghiệp từ những nỗ lực đầu tiên nhằm giải thoát bản thân mình khỏi lao động và mồ hôi không cần thiết.
Không cần quay lại xa hơn, chúng ta hãy nhìn vào tác phẩm Của Cải Của Các Dân Tộc của Adam Smith, xuất bản năm 1776. Chương đầu tiên của cuốn sách xuất sắc này mang tên “Sự phân công lao động”, và ở trang thứ hai của chương đầu tiên này, tác giả cho chúng ta biết rằng một công nhân không quen với việc sử dụng máy móc để làm ghim thì “chỉ có thể làm được một chiếc ghim mỗi ngày, và chắc chắn không thể làm được hai mươi chiếc,” nhưng nếu sử dụng máy móc, anh ta có thể làm ra 4.800 chiếc ghim mỗi ngày. Thế là, than ôi, ngay từ thời Adam Smith, máy móc đã khiến từ 240 đến 4.800 thợ làm ghim mất việc để chỉ còn lại mỗi một thợ — người biết dùng máy. Nếu máy móc chỉ khiến con người mất việc, thì trong ngành sản xuất ghim lúc bấy giờ đã có tới 99,98% thất nghiệp. Liệu tình hình có thể đen tối hơn không?
Đúng là tình hình còn có thể tồi tệ hơn, bởi vì Cách mạng Công nghiệp khi đó mới chỉ ở giai đoạn đầu. Chúng ta hãy cùng xem xét một vài sự kiện và khía cạnh của cuộc cách mạng này. Chẳng hạn, chúng ta hãy xem điều gì đã xảy ra trong ngành sản xuất tất. Khi các khung dệt tất mới được đưa vào sử dụng, chúng đã bị những người thợ thủ công phá hủy (hơn 1.000 chiếc chỉ trong một cuộc bạo loạn), nhà cửa bị đốt cháy, những người phát minh bị đe dọa và buộc phải chạy trốn để bảo toàn mạng sống, và trật tự chỉ được lập lại sau khi quân đội được huy động và những kẻ cầm đầu cuộc nổi loạn bị lưu đày hoặc bị treo cổ.
Bây giờ, điều quan trọng cần ghi nhớ là chừng nào những kẻ bạo loạn còn nghĩ đến tương lai trước mắt hoặc thậm chí lâu dài của chính mình, thì sự phản đối của họ đối với máy móc là hợp lý. Đối với William Felkin, trong cuốn Lịch Sử Ngành Sản Xuất Tất Dệt Bằng Máy (1867), ông cho chúng ta biết rằng phần lớn trong số 50.000 thợ dệt tất người Anh và gia đình họ đã không thể thoát khỏi cảnh đói nghèo do sự ra đời của máy móc trong suốt 40 năm sau đó. Tuy nhiên, nếu những kẻ bạo loạn tin rằng máy móc sẽ vĩnh viễn thay thế con người, như hầu hết bọn họ chắc chắn đã tin như vậy, thì họ đã lầm, bởi vì trước khi thế kỷ XIX kết thúc, ngành công nghiệp sản xuất tất đã thuê dụng số công nhân ít nhất một trăm lần số lượng công nhân mà nó thuê dụng vào đầu thế kỷ.
Arkwright đã phát minh ra máy kéo sợi bông vào năm 1760. Khi ấy, người ta ước tính rằng ở Anh có 5.200 thợ kéo sợi sử dụng bánh xe kéo sợi và 2.700 thợ dệt — tổng cộng là 7.900 người tham gia vào việc sản xuất hàng dệt bông. Việc đưa phát minh của Arkwright vào sử dụng đã bị phản đối với lý do rằng nó đe dọa đến sinh kế của người lao động, và sự phản đối này đã phải bị dập tắt bằng vũ lực. Tuy nhiên, đến năm 1787, tức 27 năm sau khi phát minh này xuất hiện, một cuộc điều tra của Quốc hội đã chỉ ra rằng số lượng người thực sự tham gia vào ngành kéo sợi và dệt bông đã tăng từ 7.900 lên 320.000, tức tăng 4.400%.
Nếu bạn đọc tham khảo một cuốn sách như Những Biến Động Kinh Tế Gần Đây của David A. Wells, xuất bản năm 1889, bạn sẽ thấy những đoạn văn, mà nếu bỏ qua niên đại và con số cụ thể, có thể đã được viết bởi những người bài công nghệ ngày nay của chúng ta (xin mạn phép gọi họ là technophobes). Tôi xin trích dẫn một vài đoạn:
“Trong mười năm từ 1870 đến 1880, tính cả năm 1880, ngành hàng hải thương mại của Anh đã gia tăng khối lượng vận chuyển của mình, chỉ tính riêng các lượt tàu nước ngoài nhập cảng và xuất cảng, lên tới 22 triệu tấn… tuy nhiên, số lượng công nhân được thuê để thực hiện khối lượng vận chuyển khổng lồ đó vào năm 1880 lại giảm đi khoảng ba nghìn người (chính xác là 2.990 người) so với năm 1870. Điều gì đã xảy ra? Chính là việc đưa vào sử dụng các máy nâng chạy bằng hơi nước để bốc dỡ hàng và các thang máy vận chuyển ngũ cốc tại các cầu cảng và bến tàu, việc sử dụng năng lượng hơi nước, v.v…”
“Vào năm 1873, thép Bessemer tại Anh, nơi giá của nó không bị đẩy lên bởi thuế quan bảo hộ, có giá 80 đô la một tấn; đến năm 1886, nó được sản xuất và bán ra một cách có lãi tại cùng quốc gia với giá dưới 20 đô la một tấn. Trong cùng khoảng thời gian đó, công suất sản xuất hàng năm của một lò luyện Bessemer đã tăng gấp bốn lần, mà lượng lao động liên quan không những không tăng mà còn giảm đi…”
“Công suất điện mà các động cơ hơi nước hiện có và đang hoạt động trên toàn thế giới vào năm 1887 tạo ra, theo ước tính của Cục Thống kê Berlin, tương đương với công suất của 200 triệu con ngựa, tức khoảng 1 tỷ người, hay ít nhất là gấp ba lần toàn bộ lực lượng lao động trên trái đất…”
Bạn có thể nghĩ rằng con số cuối cùng này sẽ khiến ông Wells phải chững lại và tự hỏi tại sao vẫn còn việc làm trên thế giới vào năm 1889; nhưng ông chỉ kết luận trong một sự bi quan dè dặt, rằng “trong hoàn cảnh như vậy, tình trạng sản xuất dư thừa trong công nghiệp có thể trở thành… mãn tính.”
Trong cuộc suy thoái năm 1932, trò đổ lỗi thất nghiệp cho máy móc lại bắt đầu. Chỉ trong vài tháng, học thuyết của một nhóm tự xưng là “Nhà Kỹ trị” (Technocrats) đã lan rộng khắp đất nước như cháy rừng. Tôi sẽ không làm bạn mệt mỏi với những con số phi lý mà nhóm này đưa ra, cũng như không cần phải sửa sai chúng để chỉ ra đâu mới là sự thật. Chỉ cần nói rằng những nhà kỹ trị đã quay lại với một sai lầm cũ kỹ trong hình thức nguyên sơ nhất của nó rằng máy móc vĩnh viễn thay thế con người – chỉ khác là, trong sự thiếu hiểu biết của mình, họ đã trình bày sai lầm ấy như thể đó là một khám phá mới và mang tính cách mạng của riêng họ. Đây đơn thuần là một minh họa nữa cho câu cách ngôn của Santayana rằng những ai không nhớ được quá khứ thì sẽ buộc phải lặp lại nó.
Cuối cùng, những nhà kỹ trị đã bị chế giễu và bị xóa sổ, nhưng học thuyết của họ, vốn có trước cả họ, vẫn còn tồn tại. Nó được phản ánh trong hàng trăm quy định nhằm “tạo việc làm” (make-work) và những thực hành kiểu “ngồi mát ăn bát vàng” (feather-bed) của các công đoàn; và những quy tắc và thực hành đó vẫn được dung thứ, thậm chí chấp thuận, vì sự nhầm lẫn trong công chúng về vấn đề này.
Khi làm chứng thay mặt cho Bộ Tư pháp Hoa Kỳ trước Ủy ban Kinh tế Quốc gia Lâm thời (hay còn gọi là là TNEC) vào tháng 3 năm 1941, Corwin Edwards đã trích dẫn vô số ví dụ về các thực hành kiểu này. Công đoàn điện ở thành phố New York bị cáo buộc từ chối lắp đặt thiết bị điện sản xuất bên ngoài bang New York, trừ khi thiết bị đó được tháo rời và lắp ráp lại tại công trường. Tại Houston, Texas, các thợ ống nước lành nghề và công đoàn thợ ống nước đã nhất trí rằng các ống nước được gia công sẵn để lắp đặt sẽ chỉ được công đoàn lắp đặt nếu phần ren ở một đầu ống bị cắt bỏ và ren mới được cắt tại công trường. Nhiều chi nhánh của công đoàn thợ sơn đã áp đặt các hạn chế đối với việc sử dụng súng phun sơn, trong nhiều trường hợp, những hạn chế này chỉ nhằm tạo thêm công việc bằng cách yêu cầu quy trình sơn chậm hơn bằng cọ. Một chi nhánh của công đoàn tài xế xe tải yêu cầu rằng mọi xe tải vào khu vực đô thị New York phải có thêm một tài xế địa phương, bên cạnh tài xế đã được thuê. Tại nhiều thành phố, công đoàn điện yêu cầu rằng nếu bất kỳ đèn hoặc nguồn điện tạm thời nào được sử dụng cho một công trình xây dựng, thì phải có một thợ điện bảo trì làm việc toàn thời gian, và người này không được phép làm bất kỳ công việc về điện nào khác trong công trường. Theo ông Edwards, quy định này “thường dẫn đến việc thuê một người chỉ ngồi đọc sách hoặc chơi bài cả ngày, và không làm gì khác ngoài việc bật công tắc vào đầu ngày và tắt nó vào cuối ngày.”
Người ta có thể tiếp tục dẫn ra những thực hành “tạo việc làm” như thế trong nhiều lĩnh vực khác. Trong ngành đường sắt, các công đoàn vẫn khăng khăng đòi thuê thợ đốt lò (firemen) trên các loại đầu máy xe lửa không cần đến họ. Trong các nhà hát, các công đoàn vẫn yêu cầu phải có người thay đổi bối cảnh sân khấu, ngay cả trong những vở kịch không hề sử dụng phông nền. Công đoàn nhạc công thì đòi phải thuê những nhạc công “đóng thế” (stand-in) hoặc thậm chí nguyên cả dàn nhạc, khi trong nhiều trường hợp chỉ cần phát nhạc bằng đĩa than là đủ.
2
Người ta có thể chất đống hàng núi số liệu để chứng minh rằng những người bài công nghệ trong quá khứ đã sai lầm đến mức nào. Nhưng điều đó sẽ chẳng ích gì nếu chúng ta không hiểu rõ vì sao họ lại sai. Bởi vì thống kê và lịch sử trong kinh tế học là vô dụng nếu không đi kèm với sự hiểu biết suy diễn cơ bản về các sự kiện – điều đó trong trường hợp này có nghĩa là hiểu được tại sao những hệ quả trong quá khứ của việc đưa máy móc và các thiết bị tiết kiệm sức lao động khác vào sử dụng lại diễn ra như thế. Nếu không, những người bài công nghệ sẽ khẳng định (và trên thực tế họ sẽ khẳng định như vậy khi bạn chỉ ra rằng những lời tiên đoán của những người tiền nhiệm của họ hóa ra là phi lý): “Điều đó có thể đúng trong quá khứ; nhưng ngày nay, điều kiện về cơ bản đã khác; và giờ chúng ta đơn giản là không đủ khả năng để phát triển thêm bất kỳ máy móc tiết kiệm sức lao động nào nữa.” Thật vậy, bà Eleanor Roosevelt, trong một chuyên mục báo ngày 19 tháng 9 năm 1945, đã viết: “Chúng ta đã đạt đến thời điểm mà các thiết bị tiết kiệm sức lao động chỉ tốt khi chúng không khiến người lao động mất việc.”
Nếu quả thật việc đưa máy móc tiết kiệm sức lao động vào sử dụng là nguyên nhân gây ra thất nghiệp và khốn khó ngày càng gia tăng, thì những kết luận hợp lý được rút ra sẽ mang tính cách mạng, không chỉ trong lĩnh vực kỹ thuật mà còn đối với toàn bộ khái niệm về nền văn minh của chúng ta. Chúng ta không chỉ phải coi mọi tiến bộ kỹ thuật tiếp theo là một thảm họa; mà còn phải coi mọi tiến bộ kỹ thuật trong quá khứ là nỗi kinh hoàng tương tự. Mỗi ngày, mỗi người trong chúng ta đều đang, theo khả năng của mình, cố gắng giảm bớt nỗ lực cần thiết để đạt được một kết quả nhất định.
Ai cũng đang cố gắng tiết kiệm sức lao động của mình, tối ưu hóa các phương tiện để đạt được mục tiêu. Mọi chủ doanh nghiệp, dù lớn hay nhỏ, đều liên tục tìm cách đạt được kết quả một cách kinh tế và hiệu quả hơn – tức là bằng cách tiết kiệm sức lao động. Người lao động thông minh thì cố gắng rút ngắn công sức cần thiết để hoàn thành công việc được giao. Những người tham vọng nhất trong chúng ta thì cố gắng không ngừng để nâng cao kết quả mà chúng ta có thể đạt được trong một khoảng thời gian nhất định. Nếu những người bài công nghệ thực sự logic và nhất quán, thì họ sẽ phải bác bỏ tất cả những tiến bộ và sáng kiến ấy, vì chúng không chỉ vô ích mà còn tai hại. Tại sao phải vận chuyển hàng hóa từ New York đến Chicago bằng đường sắt, khi ta có thể thuê số lượng người nhiều hơn gấp bội, chẳng hạn, để vác tất cả chúng trên lưng họ?
Những lý thuyết sai lầm như thế này không bao giờ được duy trì một cách nhất quán về mặt logic, nhưng chúng gây ra tổn hại lớn vì chúng vẫn tồn tại. Vậy nên, hãy thử xem chuyện gì thật sự xảy ra khi các cải tiến kỹ thuật và máy móc tiết kiệm sức lao động được đưa vào sử dụng. Các chi tiết sẽ khác nhau trong từng trường hợp, tùy vào các điều kiện cụ thể trong từng ngành hay từng thời kỳ. Nhưng chúng ta sẽ giả định một ví dụ liên quan đến những khả năng chính có thể xảy ra.
Giả sử một nhà sản xuất quần áo phát hiện ra một loại máy móc có thể sản xuất áo khoác nam và nữ với một nửa lượng lao động so với trước đây. Ông ta lắp đặt những chiếc máy đó và cắt giảm một nửa lực lượng lao động của mình.
Thoạt nhìn, điều này có vẻ như rõ ràng gây ra mất việc làm. Nhưng bản thân chiếc máy đó cũng cần lao động để sản xuất ra nó; vì vậy ở đây, như một sự bù trừ, là những công việc mà nếu không có chiếc máy thì sẽ không tồn tại. Tuy nhiên, nhà sản xuất sẽ chỉ chấp nhận đưa máy vào sử dụng nếu nó làm ra những bộ áo tốt hơn với một nửa sức lao động, hoặc làm ra những bộ áo tương tự nhưng với chi phí thấp hơn. Nếu chúng ta đồng ý với giả định của trường hợp sau, thì chúng ta không thể giả định rằng lượng lao động cần thiết để sản xuất những chiếc máy đó, tính theo tiền lương phải trả, lại lớn bằng lượng lao động mà nhà sản xuất quần áo hy vọng sẽ tiết kiệm được về lâu dài nhờ sử dụng chiếc máy đó; nếu không thì sẽ chẳng có sự tiết kiệm nào cả, và ông ta sẽ không sử dụng chiếc máy đó.
Vậy thì vẫn còn một phần tổn thất ròng về việc làm cần được lý giải. Nhưng ít nhất chúng ta nên ghi nhớ khả năng thực tế rằng ngay cả tác động đầu tiên của việc đưa máy móc tiết kiệm sức lao động vào sử dụng cũng có thể làm tăng việc làm trên cán cân tổng thể; bởi vì thường thì chỉ về lâu dài nhà sản xuất quần áo mới mong tiết kiệm được tiền nhờ sử dụng chiếc máy: có thể phải mất vài năm thì chiếc máy đó mới “tự hoàn vốn”.
Sau khi chiếc máy tạo ra được mức tiết kiệm đủ để bù đắp chi phí của nó, nhà sản xuất quần áo sẽ có lợi nhuận nhiều hơn trước. (Ta sẽ giả định rằng ông ta chỉ bán áo khoác của mình với mức giá bằng các đối thủ cạnh tranh, và không cố gắng bán rẻ hơn.) Tại thời điểm này, có vẻ như người lao động đã chịu thiệt hại ròng về việc làm, trong khi chỉ có nhà sản xuất, tức nhà tư bản, là người được lợi. Nhưng chính từ phần lợi nhuận dư ra này mà các lợi ích xã hội tiếp theo sẽ phát sinh. Nhà sản xuất phải sử dụng số lợi nhuận dư này theo ít nhất một trong ba cách, và có thể ông ta sẽ sử dụng một phần trong số đó vào cả ba: (1) ông ta sẽ dùng lợi nhuận đó để mở rộng hoạt động bằng cách mua thêm máy móc để sản xuất thêm áo khoác; hoặc (2) ông ta sẽ đầu tư số lợi nhuận ấy vào một ngành công nghiệp khác; hoặc (3) ông ta sẽ chi tiêu phần lợi nhuận dư ra để tăng mức tiêu dùng của bản thân. Dù ông ta chọn cách nào trong ba cách này, ông ta sẽ làm tăng việc làm.
Nói cách khác, nhà sản xuất, nhờ vào các khoản tiết kiệm đạt được, có được một khoản lợi nhuận mà trước đây ông ta không có. Mỗi đô la mà ông ta tiết kiệm được từ tiền lương trực tiếp trả cho những thợ may áo khoác trước kia, thì nay sẽ được chi trả dưới dạng tiền lương gián tiếp cho những công nhân sản xuất ra máy móc mới, hoặc cho những công nhân trong một ngành công nghiệp tư bản khác, hoặc cho những công nhân tạo ra ngôi nhà mới hay chiếc xe hơi mới cho ông ta, hoặc đồ trang sức và lông thú cho vợ ông ta. Trong mọi trường hợp (trừ phi ông ta là kẻ chỉ biết tích trữ vô ích), ông ta sẽ gián tiếp tạo ra số việc làm tương đương với số việc làm mà ông ta đã trực tiếp cắt giảm trước đó.
Nhưng vấn đề không dừng lại và cũng không thể dừng lại ở giai đoạn này. Nếu nhà sản xuất năng động này đạt được những hiệu quả kinh tế lớn so với các đối thủ cạnh tranh, thì hoặc là ông ta sẽ bắt đầu mở rộng hoạt động kinh doanh của mình bằng cách chiếm thị phần của họ, hoặc là họ cũng sẽ bắt đầu mua máy móc. Một lần nữa, nhiều công việc hơn sẽ được giao cho những người sản xuất máy móc. Nhưng khi đó, sự cạnh tranh và sản xuất sẽ bắt đầu buộc giá áo khoác phải giảm xuống. Những người áp dụng máy móc mới sẽ không còn thu được lợi nhuận lớn như trước nữa. Tỷ suất lợi nhuận của các nhà sản xuất sử dụng máy móc mới sẽ bắt đầu giảm, trong khi những nhà sản xuất vẫn chưa áp dụng máy móc có thể không thu được lợi nhuận nào cả. Nói cách khác, phần tiết kiệm sẽ bắt đầu được chuyển cho những người mua áo khoác — tức là cho người tiêu dùng.
Nhưng vì áo khoác giờ đây rẻ hơn nên sẽ có nhiều người mua chúng hơn. Điều này có nghĩa là, mặc dù cần ít người hơn để sản xuất cùng một lượng áo khoác như trước đây, nhưng hiện tại lại có nhiều áo khoác được sản xuất hơn trước. Nếu nhu cầu đối với áo khoác là điều mà các nhà kinh tế gọi là “tính co giãn” – nghĩa là nếu giá áo khoác giảm khiến tổng số tiền chi cho áo khoác lớn hơn so với trước – thì thậm chí có thể sẽ có nhiều người được tuyển dụng để sản xuất áo khoác hơn so với trước khi máy móc tiết kiệm sức lao động được đưa vào sử dụng. Chúng ta đã thấy điều này thực sự xảy ra như thế nào trong lịch sử với tất và các loại hàng dệt may khác.
Nhưng việc làm mới không phụ thuộc vào độ co giãn của nhu cầu đối với sản phẩm cụ thể đó. Giả sử rằng, dù giá áo khoác đã giảm gần một nửa – từ mức giá trước đây, chẳng hạn, là 50 đô la xuống mức giá mới là 30 đô la – nhưng không có thêm chiếc áo khoác nào được bán ra. Kết quả là, trong khi người tiêu dùng vẫn được cung cấp áo khoác mới như trước, thì mỗi người mua giờ đây sẽ còn lại 20 đô la, số tiền mà trước đây họ không hề dư. Do đó, họ sẽ dùng 20 đô la này để chi tiêu cho một mặt hàng khác, và điều đó sẽ tạo ra nhiều việc làm hơn trong các ngành khác.
Tóm lại, xét về tổng thể, máy móc, cải tiến công nghệ, tính kinh tế và hiệu quả không khiến con người mất việc.
3
Dĩ nhiên, không phải tất cả các phát minh và khám phá đều là các máy móc “tiết kiệm sức lao động”. Một vài trong số chúng, như các thiết bị đo lường chính xác, hay nylon, lucite, ván ép và nhựa các loại, chỉ đơn giản là cải thiện chất lượng sản phẩm. Một số khác, như điện thoại hay máy bay, thực hiện những hoạt động mà sức lao động trực tiếp của con người không thể thực hiện được. Lại có một số khác nữa tạo ra các vật thể và dịch vụ, chẳng hạn như tia X, radio và cao su tổng hợp, những thứ mà nếu không có máy móc thì thậm chí sẽ không tồn tại. Nhưng trong ví dụ nêu trên, chúng ta đã lấy chính xác loại máy móc vốn đã trở thành đối tượng đặc biệt của hội chứng sợ công nghệ hiện đại.
Tất nhiên, cũng có thể đi quá xa trong lập luận rằng máy móc, xét trên tổng thể, không khiến con người mất việc làm. Chẳng hạn, đôi khi người ta cho rằng máy móc tạo ra nhiều việc làm hơn so với số việc làm vốn sẽ tồn tại nếu không có chúng. Trong một số điều kiện nhất định, điều này có thể đúng. Chúng chắc chắn có thể tạo ra số lượng việc làm khổng lồ trong những ngành cụ thể. Các số liệu của ngành dệt may vào thế kỷ 18 là một ví dụ điển hình. Và những ví dụ hiện đại của nó cũng ấn tượng không kém. Năm 1910, có 140.000 người được thuê trong ngành công nghiệp xe hơi mới hình thành ở Hoa Kỳ. Đến năm 1920, khi sản phẩm được cải tiến và chi phí giảm xuống, ngành này đã tuyển dụng 250.000 người. Năm 1930, khi quá trình cải tiến sản phẩm và giảm chi phí này tiếp tục, số lượng việc làm trong ngành là 380.000 người. Và đến năm 1940, con số này đã tăng lên 450.000. Cũng vào năm 1940, có 35.000 người làm việc trong ngành sản xuất tủ lạnh điện và 60.000 người làm việc trong ngành công nghiệp radio. Hiện tượng này lặp lại trong nhiều ngành nghề mới được hình thành, khi các phát minh không ngừng được cải tiến và khiến chi phí sản xuất dần giảm xuống.
Cũng có một cách hiểu tuyệt đối mà theo đó, người ta có thể nói rằng máy móc đã làm tăng số lượng việc làm một cách đáng kể. Dân số thế giới ngày nay lớn gấp ba lần so với giữa thế kỷ 18, trước khi cuộc Cách mạng Công nghiệp thực sự bắt đầu. Người ta có thể nói rằng máy móc đã tạo ra sự gia tăng dân số này, vì nếu không có máy móc thì thế giới không thể nuôi sống ngần ấy người. Vì vậy, hai trong ba người trong chúng ta có thể nói rằng không chỉ nhờ máy móc mà chúng ta có việc làm, mà còn là nhờ máy móc mà chúng ta được sống.
Tuy vậy, sẽ là sai lầm nếu nghĩ rằng chức năng hoặc kết quả của máy móc chủ yếu là tạo ra việc làm. Kết quả thực sự của máy móc là tăng sản lượng, nâng cao mức sống, và tăng phúc lợi kinh tế. Không khó để tạo việc làm cho tất cả mọi người, ngay cả (hoặc đặc biệt là) trong nền kinh tế thô sơ nhất. Toàn dụng lao động – có đủ việc làm cho tất cả mọi người; làm việc thời gian dài, vất vả, cực nhọc – là đặc điểm của chính những quốc gia chậm phát triển nhất về mặt công nghiệp. Ở những nơi toàn dụng lao động đã tồn tại, thì máy móc, phát minh và khám phá mới không thể tạo ra thêm việc làm, chừng nào dân số chưa tăng lên. Chúng có khả năng khiến thất nghiệp gia tăng (nhưng ở đây, tôi đang nói về thất nghiệp tự nguyện, chứ không phải thất nghiệp cưỡng bức) vì mọi người nay có thể làm việc ít giờ hơn, trong khi trẻ em và người già không còn cần phải làm việc nữa.
Điều máy móc làm, xin nhắc lại, là làm tăng sản lượng và nâng cao mức sống. Chúng có thể làm được điều đó theo một trong hai cách. Chúng làm điều đó bằng cách làm cho hàng hóa trở nên rẻ hơn đối với người tiêu dùng (như trong ví dụ về những chiếc áo khoác), hoặc chúng làm điều đó bằng cách tăng lương, khi chúng làm tăng năng suất của người lao động. Nói cách khác, chúng hoặc làm tăng lương, hoặc làm tăng lượng hàng hóa và dịch vụ mà cùng một mức lương bằng tiền đó có thể mua được bằng cách làm giảm giá cả hàng hoá. Đôi khi, chúng làm được cả hai việc đó. Những gì thực sự xảy ra phần lớn sẽ phụ thuộc vào chính sách tiền tệ mà một quốc gia theo đuổi. Nhưng trong mọi trường hợp, máy móc, phát minh và khám phá đều làm tăng lương thực tế.
4
Trước khi kết thúc chủ đề này, chúng ta cần một lời cảnh báo. Điểm mạnh nổi bật nhất của các nhà kinh tế học cổ điển chính là họ luôn tìm kiếm những hậu quả thứ cấp, rằng họ quan tâm đến những tác động của một chính sách kinh tế hoặc sự phát triển nhất định trong dài hạn và đối với toàn thể cộng đồng. Nhưng điểm yếu của họ là, khi quá tập trung vào tầm nhìn dài và rộng, đôi khi họ bỏ qua tầm nhìn ngắn hạn và cụ thể. Họ thường có xu hướng xem nhẹ hoặc quên hẳn những tác động tức thời đối với các nhóm cụ thể. Chúng ta đã thấy, chẳng hạn, những người đan tất ở Anh đã phải chịu những thảm kịch thực sự do sự ra đời của những chiếc khung dệt tất mới, một trong những phát minh đầu tiên của cuộc Cách mạng Công nghiệp.
Nhưng những thực tế như vậy và các phiên bản hiện đại của chúng đã khiến một số nhà văn đi đến thái cực ngược lại, chỉ nhìn vào những tác động tức thời đối với một số nhóm nhất định. Joe Smith bị mất việc do một loại máy móc mới được đưa vào sử dụng. “Hãy để mắt đến Joe Smith,” những nhà văn này nhấn mạnh. “Đừng bao giờ rời mắt khỏi Joe Smith.” Nhưng rồi họ chỉ chăm chăm nhìn vào Joe Smith, và quên mất Tom Jones, người vừa có việc làm mới trong việc sản xuất chiếc máy đó, và Ted Brown, người vừa có công việc vận hành máy, và Daisy Miller, người giờ đây có thể mua một chiếc áo khoác với giá chỉ bằng một nửa giá trước đây. Và bởi vì họ chỉ nghĩ đến Joe Smith, nên rốt cuộc họ lại ủng hộ những chính sách phản tiến bộ và vô lý.
Đúng vậy, chúng ta nên ít nhất giữ một con mắt hướng về Joe Smith. Ông đã bị mất việc vì chiếc máy mới. Có lẽ ông sẽ sớm có được một công việc khác, thậm chí là một công việc tốt hơn. Nhưng cũng có thể, ông đã dành nhiều năm trong đời để học hỏi và rèn luyện một kỹ năng đặc biệt mà thị trường không còn cần đến nữa. Ông đã đánh mất khoản đầu tư vào chính bản thân mình, vào kỹ năng cũ ấy, cũng giống như việc chủ cũ của ông, có lẽ, đã mất khoản đầu tư vào những chiếc máy hay quy trình cũ mà giờ đây đột nhiên đã trở nên lỗi thời. Ông từng là một lao động lành nghề, được trả công tương xứng. Giờ đây ông bỗng chốc trở thành một lao động phổ thông, và hiện tại chỉ có thể hy vọng nhận được mức lương của một lao động phổ thông, bởi vì kỹ năng duy nhất mà ông có không còn được cần đến nữa. Chúng ta không thể và không được quên Joe Smith. Ông là một trong những bi kịch cá nhân, như chúng ta sẽ thấy, là một phần của hầu hết mọi tiến bộ công nghiệp và kinh tế.
Việc đặt ra câu hỏi một cách chính xác rằng chúng ta nên xử lý ra sao với Joe Smith — liệu chúng ta nên để ông tự thích nghi, trả cho ông tiền trợ cấp thôi việc hoặc trợ cấp thất nghiệp, đưa ông vào diện trợ cấp xã hội, hay đào tạo ông bằng ngân sách nhà nước cho một công việc mới — sẽ đưa chúng ta đi xa khỏi điểm mà chúng ta đang cố gắng minh họa ở đây. Bài học cốt lõi là chúng ta nên cố gắng nhìn thấy tất cả các hậu quả chính của bất kỳ chính sách hay sự phát triển kinh tế nào — cả những tác động tức thời đối với các nhóm cụ thể và những tác động lâu dài đối với tất cả các nhóm.
Nếu chúng ta dành khá nhiều thời gian cho vấn đề này, thì đó là bởi vì các kết luận của chúng ta về tác động của máy móc, phát minh và khám phá mới đối với việc làm, sản xuất và phúc lợi là rất quan trọng. Nếu chúng ta sai về những điều này, thì có rất ít điều trong kinh tế học mà chúng ta có thể đúng.