Nước Mỹ chống nước Mỹ. Chương 3, Bài 1: Con người mang tính quốc tế

Tác giả: Vương Hỗ Ninh

Chương 3. Tính cách dân tộc đa dạng

Bài 1. Con người mang tính quốc tế

Người Mỹ có thể được gọi là những con người mang tính quốc tế. Mặc dù phần lớn người dân không tự nguyện nuôi dưỡng ý thức hòa nhập với thế giới, nhưng các cơ chế xã hội và kinh tế của họ đã buộc họ phải bước vào một thế giới đa dạng. Nhìn chung, ý thức toàn cầu của người Mỹ yếu hơn nhiều so với các dân tộc mà chính người Mỹ hay phương Tây thường coi là lạc hậu và thiếu hiểu biết. Trong những năm gần đây, các học giả Mỹ liên tục lên tiếng chỉ trích sự thiếu hụt nghiêm trọng về kiến thức thế giới ở thế hệ trẻ — điều được xem là không xứng đáng với một cường quốc.

Trong khi đó, người dân ở các quốc gia đang phát triển hoặc kém phát triển lại có khát vọng mạnh mẽ hướng tới sự thịnh vượng, phát triển và hội nhập với thế giới bên ngoài; họ thường có nhận thức rõ nét hơn về thế giới và nắm bắt được nhiều thông tin hơn.

Tại Hoa Kỳ, người dân mang tính quốc tế một cách thụ động; các tương tác về xã hội, kinh tế và giao lưu quốc tế đã buộc họ phải tiếp cận thế giới. Học thuyết Monroe từng phổ biến trước đây giờ đây rất khó để tái hiện, ngoại trừ trong những bối cảnh lịch sử đặc thù. Hình ảnh người Mỹ đội mũ rơm, cưỡi ngựa và mang khuôn mặt vàng trong các bộ phim cao bồi viễn Tây nay đã được thay thế bằng những người đi khắp thế giới trên các máy bay Boeing 747, tàu sân bay hoặc tàu ngầm hạt nhân. Một bộ phận không nhỏ những người có học vấn đang tập trung vào sự phát triển toàn cầu và tiến trình quốc tế hóa con người. Trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu, đã và đang có những nỗ lực nhằm thúc đẩy tiến trình quốc tế hóa công dân Mỹ. Có thể nói rằng, người Mỹ nhìn chung được nuông chiều và phần lớn dân chúng không mấy quan tâm đến thế giới bên ngoài, chỉ chăm chú vào cuộc sống trong phạm vi của riêng mình. Tuy nhiên, cũng có một bộ phận không nhỏ người Mỹ nhận thức rõ vấn đề này và đã nỗ lực thúc đẩy các chương trình nghiên cứu và giáo dục quốc tế nhằm đào tạo nguồn nhân lực có tư duy toàn cầu.

Việc thúc đẩy quá trình quốc tế hóa phụ thuộc vào hai loại thể chế: các cơ sở giáo dục và các tổ chức khoa học. Số lượng các tổ chức nghiên cứu các vấn đề quốc tế trong xã hội Mỹ có lẽ thuộc hàng cao nhất thế giới. Bên cạnh nhiều tổ chức nghiên cứu độc lập, còn có các viện nghiên cứu hoặc chương trình nghiên cứu cấp vùng hoặc cấp khu vực trực thuộc các trường đại học. Giáo dục đại học ở Mỹ ngày càng chú trọng đến giáo dục quốc tế và thúc đẩy nhận thức toàn cầu trong sinh viên.

Tóm lại, có thể nhận thấy một số đặc điểm nổi bật của các tổ chức này như sau.

Ranh giới khu vực được phân định rõ ràng. Trong các trường đại học, giáo dục về các vấn đề quốc tế được phân loại một cách cụ thể chứ không mang tính khái quát. Các khoa khoa học chính trị trong trường đại học thường có các chương trình tổng quát về quan hệ quốc tế và nghiên cứu chính trị so sánh, nhưng đồng thời cũng có sự phân chia rất chi tiết. Chẳng hạn, Đại học Bang Iowa có Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc và Chương trình Nghiên cứu Nhật Bản; Đại học Michigan nổi tiếng với Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc; Đại học Syracuse có chương trình nghiên cứu Ấn Độ rất mạnh; còn Đại học Washington ở Seattle thì có một Chương trình Nghiên cứu Trung Quốc chuyên biệt. Các viện nghiên cứu trực thuộc trường đại học cũng có sự phân loại chuyên sâu, chẳng hạn như Viện Văn hóa Trung Quốc đương đại của Đại học Michigan chuyên tập trung nghiên cứu về Trung Quốc. Những viện nghiên cứu hoặc chương trình chuyên biệt này đã quy tụ đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực  và góp phần phát triển mạnh mẽ chuyên ngành đó.

Mục tiêu giáo dục rõ ràng. Quá trình quốc tế hóa con người rất quan trọng trong việc giúp các thế hệ nhận thức về thế giới. Việc đạt được mục tiêu này phụ thuộc vào việc triển khai các chương trình giáo dục quốc tế. Các trường đại học nói chung rất chú trọng vào việc đạt được mục tiêu này. Khi tôi thăm một số trường đại học ở miền Trung của Trung Quốc, các giáo sư ở đó cho biết rằng người dân ở miền Trung của Trung Quốc có xu hướng bảo thủ và lạc hậu, ít cởi mở, ít tiếp nhận các kiến thức và ý tưởng mới từ bên ngoài, và thậm chí còn không chắc chắn về thế giới. Để thúc đẩy sự phát triển của khu vực trung tâm đất nước, chúng ta cần giúp người dân nơi đây hiểu thêm về thế giới, vì vậy chúng tôi coi trọng giáo dục quốc tế. Khi thăm một số trường đại học ở miền Đông, các giáo sư ở miền Đông này cho rằng giáo dục quốc tế là một truyền thống của văn hóa phương Đông, với sự cởi mở và hiểu biết về thế giới, đặc biệt là châu Âu. Miền Đông mạnh về nghiên cứu quốc tế. Khi thăm một số trường đại học ở miền Tây, các giáo sư ở đây nhấn mạnh rằng thế kỷ 21 sẽ là thế kỷ của khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, và bờ Tây xa xôi với khu vực này, vì vậy chúng ta cần tập trung vào nghiên cứu khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, do đó nghiên cứu và giáo dục về khu vực Châu Á – Thái Bình Dương ở miền Tây đặc biệt phát triển.

Chính phủ chú trọng vào việc thúc đẩy. Quá trình quốc tế hóa con người liên quan đến sự phát triển toàn diện của các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa của một quốc gia. Sự phát triển của xã hội cuối cùng phụ thuộc vào chất lượng con người của nó. Vị thế quốc tế của một quốc gia và khả năng cạnh tranh trong cộng đồng quốc tế cũng phụ thuộc vào chất lượng con người của quốc gia đó. Các nhà làm chính sách hiểu rõ điều này. Đây là một quốc gia liên bang, và các chính quyền bang có quyền quyết định đối với các trường đại học của bang. Mỗi chính quyền bang yêu cầu các trường đại học của mình phát triển một chương trình giáo dục quốc tế mạnh mẽ. Ví dụ, Đại học California, San Diego, đã thành lập một trường sau đại học về quan hệ quốc tế và nghiên cứu khu vực Thái Bình Dương để đào tạo nhân lực phục vụ sự phát triển của California trong khu vực Châu Á – Thái Bình Dương. Trường này đang sử dụng mức lương cao để “câu” những giáo sư nổi tiếng từ các trường đại học khác. Một trong những chuyên gia hàng đầu về Nhật Bản của Berkeley đã được mời, với mức lương rất cao, có thể lên tới 150.000 USD mỗi năm. Trường cũng đang xây dựng một tòa tháp văn phòng trên bờ biển Thái Bình Dương, đối diện với những con sóng của đại dương, với mục tiêu truyền cảm hứng cho thế giới từ bên trong. Trường đại học này được thành lập bởi chính quyền bang vào năm 1986 như một trung tâm duy nhất tập trung vào khu vực Thái Bình Dương trong hệ thống các trường đại học của California (gồm chín cơ sở). Mô tả về trường đại học này rõ ràng nêu lên mục tiêu chính: đào tạo sinh viên quan tâm đến các quốc gia trong khu vực Thái Bình Dương, chuẩn bị cho họ các vị trí lãnh đạo trong lĩnh vực kinh doanh, ngoại giao, các tổ chức công và các lĩnh vực khác, và làm cho trường trở thành một trung tâm nghiên cứu về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội, công nghệ và an ninh trong khu vực. Đây chỉ là một ví dụ trong số nhiều trường đại học ở Hoa Kỳ. Ý định của chính phủ, tất nhiên, không chỉ là đào tạo sinh viên, mà còn là định hướng phát triển chính trị, kinh tế và văn hóa. Tuy nhiên, nếu không có bước đi đầu tiên này, bước đi sau sẽ rất khó đạt được.

Nhấn mạnh vào trao đổi quốc tế. Các cơ sở giáo dục hoặc nghiên cứu liên quan đến các vấn đề quốc tế không chỉ tập trung vào việc thúc đẩy nghiên cứu các vấn đề nước ngoài bởi các giáo sư của mình, mà còn rất chú trọng đến việc mở rộng các trao đổi học thuật và hợp tác với các học giả từ các quốc gia mà họ nghiên cứu. Người Mỹ có lẽ là những người có xu hướng sử dụng chuyên gia nước ngoài nhiều nhất, và trong vấn đề này, quốc gia này rất thực dụng. Miễn là họ có ích, họ sẵn sàng sử dụng bất kỳ ai. Ở nhiều cơ sở nghiên cứu và giáo dục quốc tế, có thể tìm thấy các học giả thỉnh giảng đến từ nhiều quốc gia, đôi khi là theo nhóm. Đồng thời, người Mỹ có xu hướng thuê chính thức ai đó từ một quốc gia cụ thể làm giáo sư nếu người đó đủ điều kiện. Kết quả là, các giáo sư có nguồn gốc từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Ấn Độ, Canada, Pháp và Hungary thường xuyên xuất hiện trong các trường đại học, một hiện tượng mà tôi e rằng không phải là phổ biến trên thế giới. Quan niệm của người Mỹ là thực dụng, vì bạn đến từ quốc gia hoặc khu vực đó, bạn nói được ngôn ngữ, bạn quen thuộc với phong tục, và bạn ở vị trí tốt hơn để nghiên cứu các vấn đề của khu vực đó. Lấy ví dụ, Viện Đông Á tại Đại học California, Berkeley. Viện này có ít nhà nghiên cứu và chỉ có nhân viên hành chính, nhưng lại có hàng chục học giả thỉnh giảng đến từ Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Nepal và các nơi khác. Quan điểm của Giám đốc Robert A. Scalapino là, với hơn một nửa dân số thế giới sinh sống tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, với các cường quốc chính trị và chiến lược lớn của thế giới trong khu vực, và với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, khu vực này có tầm quan trọng toàn cầu. Viện cam kết thúc đẩy trao đổi giữa các học giả Mỹ và học giả châu Á. Mục tiêu của việc thu hút các học giả nước ngoài đến Hoa Kỳ không chỉ là thu hút mà còn là sự tỏa ra. Sau các chuyến thăm, các học giả thỉnh giảng trở về các quốc gia của họ. Họ trở thành những người đồng nghiệp mà các học giả Mỹ có thể tiếp tục giao tiếp, và toàn bộ sự tham gia học thuật sẽ tiếp tục. Còn về vai trò phi học thuật của sự trao đổi này, tất nhiên, đây không phải là trường hợp.

Quá trình quốc tế hóa của người Mỹ, ở mức độ phổ biến, có phần thụ động; họ bị cuốn vào thế giới bởi quá trình hội nhập kinh tế toàn cầu, và các thách thức kinh tế từ châu Âu, Nhật Bản và châu Á khiến họ không thể không tham gia vào đời sống kinh tế quốc tế. Mặt khác, định hướng chính sách của chính phủ cũng đã góp phần vào việc họ tham gia vào đời sống quốc tế, như các vấn đề Trung Đông, các vấn đề Trung Mỹ, v.v. Tuy nhiên, từ quan điểm của chính phủ và những người có hiểu biết, họ có mục tiêu rõ ràng và chiến lược trong việc theo đuổi quá trình quốc tế hóa. Các cơ sở giáo dục và khoa học cũng có các mục tiêu dài hạn. Đây là các quá trình có ý thức, có tổ chức và có kế hoạch. Sự phát triển trong quá khứ, hiện tại và tương lai của Hoa Kỳ không thể tách rời khỏi quá trình này. Điều khiến các chính trị gia và những người có hiểu biết lo ngại là thế hệ trẻ ngày càng trở nên ít mang tính quốc tế hơn. Bản chất của sự lo ngại này là, Hoa Kỳ có thể duy trì vị thế là một cường quốc thế giới bao lâu nữa? Liệu họ có thực sự hiểu thế giới? Liệu họ có khả năng cạnh tranh trong một đấu trường quốc tế, nơi có nhiều đối thủ mạnh?

Đối với bất kỳ xã hội, quốc gia và nhà nước nào, trong thế giới ngày nay, nơi cộng đồng nhân loại đang trong sự đoàn kết, điều kiện tiên quyết để phát triển quốc gia, xã hội hay đất nước của mình là phải hiểu và nắm vững các thế mạnh và chiến lược của các quốc gia và xã hội khác. Thế giới ngày nay là thế giới của sự hợp tác cộng với cạnh tranh, và theo một nghĩa nào đó, đây là một thế giới của cạnh tranh. Các quốc gia trên thế giới đang cạnh tranh toàn diện trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, quân sự và phong cách sống. Thất bại hoặc tụt lại trong cuộc cạnh tranh này có nghĩa là lạc hậu và nghèo đói. Lịch sử gần đây đã chứng minh điều này. Điều thay đổi hiện nay chỉ đơn giản là cuộc cạnh tranh này trở nên gay gắt và bất bình đẳng hơn. Yếu tố quan trọng để chiến thắng trong cuộc cạnh tranh này chính là con người. Thúc đẩy quá trình quốc tế hóa con người sẽ là một khía cạnh quan trọng trong việc cải thiện và củng cố họ. Hãy tưởng tượng những người lái xe bò và sống một cuộc sống nhàn rỗi ở nông thôn, và những người bay trên các máy bay phản lực và sống một cuộc sống căng thẳng ở thành phố, gặp gỡ nhau trên sân khấu thế giới này và đối mặt với những phức tạp của các thể chế khác nhau, ai sẽ có tính cạnh tranh cao hơn?

Chìa khóa ở đây không phải là ranh giới địa lý, mà là ranh giới tinh thần. Những người sống ở các thành phố hiện đại có thể vẫn giữ cảm giác về quê hương, trong khi những người sống ở nông thôn cũng có thể có cảm giác quốc tế rất mạnh mẽ. Giáo dục là một sức mạnh mạnh mẽ để phá vỡ ranh giới trong tâm trí. Chỉ khi ranh giới này thực sự và hoàn toàn bị phá vỡ, một dân tộc và xã hội mới có thể thực sự gia nhập cộng đồng quốc tế và cạnh tranh hiệu quả trên trường quốc tế. 

Việc phá vỡ ranh giới này chính là quốc tế hóa con người.


Đăng ngày

trong

Thẻ: