Tác giả: Henry Hazlitt.
Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.
Chương 20: “Đủ để mua lại sản phẩm”
1
Những cây bút nghiệp dư về kinh tế luôn đòi hỏi những mức giá “công bằng” và mức lương “công bằng”. Những khái niệm mơ hồ về công lý kinh tế này bắt nguồn từ thời trung cổ. Các nhà kinh tế học cổ điển, thay vì thế, đã đưa ra một khái niệm khác — khái niệm giá theo chức năng và tiền lương theo chức năng. Giá theo chức năng là những mức giá khuyến khích sản xuất đạt sản lượng lớn nhất và tiêu thụ đạt mức cao nhất. Tiền lương theo chức năng là những mức lương có xu hướng tạo ra mức việc làm cao nhất và tổng quỹ lương lớn nhất.
Khái niệm tiền lương theo chức năng đã bị những người theo chủ nghĩa Marx và những môn đồ vô thức của họ, trường phái sức mua, tiếp thu dưới một hình thức sai lệch. Cả hai nhóm này để lại cho những người với đầu óc đơn giản một câu hỏi rằng liệu mức lương hiện tại có “công bằng” hay không. Họ nhấn mạnh rằng câu hỏi thực sự là liệu mức lương đó có hoạt động được hay không. Và theo họ, mức lương duy nhất có thể hoạt động — mức lương duy nhất có thể ngăn chặn một cuộc khủng hoảng kinh tế cận kề — là mức lương cho phép người lao động “mua lại sản phẩm mà họ tạo ra”. Các trường phái Marxist và trường phái sức mua quy kết mọi cuộc suy thoái trong quá khứ là do thất bại trước đó trong việc trả mức lương như vậy. Và bất kể họ phát biểu vào thời điểm nào, họ luôn tin rằng mức lương hiện tại vẫn chưa đủ cao để người lao động có thể mua lại sản phẩm.
Học thuyết này đã chứng tỏ là đặc biệt hiệu quả trong tay các nhà lãnh đạo công đoàn. Mất hy vọng vào khả năng khơi dậy sự quan tâm vị tha của công chúng hay thuyết phục các chủ lao động (mặc định là độc ác) trở nên “công bằng”, họ đã chớp lấy một lập luận nhằm đánh vào động cơ ích kỷ của công chúng, và khiến họ hoảng sợ đến mức buộc các chủ lao động phải chấp thuận các yêu sách của công đoàn.
Nhưng làm sao chúng ta biết chính xác khi nào người lao động có “đủ để mua lại sản phẩm”? Hay khi nào họ có nhiều hơn mức cần thiết? Làm sao chúng ta xác định được chính xác số tiền phù hợp là bao nhiêu? Vì những người ủng hộ học thuyết này dường như không có nỗ lực rõ ràng nào để trả lời các câu hỏi đó, nên chúng ta buộc phải tự tìm câu trả lời.
Một số người ủng hộ học thuyết này dường như ngụ ý rằng công nhân trong mỗi ngành nên nhận được đủ tiền để có thể mua lại chính sản phẩm cụ thể mà họ làm ra. Nhưng chắc chắn họ không thể có ý rằng những người may váy giá rẻ phải được trả đủ để mua váy giá rẻ, và những người làm áo khoác lông chồn phải được trả đủ để mua áo khoác lông chồn; hoặc rằng công nhân trong nhà máy Ford phải nhận đủ tiền để mua xe Ford, và công nhân trong nhà máy Cadillac thì phải nhận đủ tiền để mua xe Cadillac.
Tuy nhiên, điều đáng lưu ý là các công đoàn trong ngành công nghiệp ô tô, vào thời điểm mà hầu hết các thành viên của họ đã nằm trong nhóm một phần ba có thu nhập cao nhất cả nước, và khi mức lương hàng tuần của họ, theo số liệu của chính phủ, đã cao hơn 20% so với mức lương trung bình được trả trong các nhà máy và gần gấp đôi mức lương trung bình được trả trong ngành bán lẻ, vẫn yêu cầu tăng lương 30%, với lý do, theo lời một người phát ngôn của họ, để “tăng cường khả năng hấp thụ hàng hóa đang suy giảm nhanh chóng của chúng tôi, những hàng hóa mà chúng tôi có khả năng sản xuất.”
Vậy thì còn công nhân trung bình trong các nhà máy và nhân viên bán lẻ trung bình thì sao? Nếu trong hoàn cảnh như vậy mà công nhân ngành ô tô vẫn cần tăng lương 30% để ngăn nền kinh tế sụp đổ, thì liệu chỉ 30% có đủ đối với những người khác không? Hay họ sẽ cần được tăng từ 55% đến 160% để có được sức mua bình quân đầu người ngang với công nhân ngành ô tô? (Chúng ta có thể chắc chắn rằng, nếu nhìn vào lịch sử thương lượng tiền lương ngay cả trong nội bộ từng công đoàn, thì công nhân ngành ô tô, nếu đề xuất tăng lương kể trên được đưa ra, sẽ kiên quyết giữ nguyên các mức chênh lệch lương hiện có; bởi vì niềm khao khát bình đẳng kinh tế, dù trong các thành viên công đoàn hay phần còn lại của xã hội — với ngoại lệ là một số ít nhà từ thiện và thánh nhân hiếm hoi — thực chất là khát vọng được nhận nhiều như những người ở tầng lớp kinh tế cao hơn, chứ không phải là mong muốn những người ở tầng lớp dưới được hưởng bằng với chính mình. Tuy nhiên, điều chúng ta đang xét ở đây là tính logic và hợp lý của một lý thuyết kinh tế cụ thể, chứ không phải những khuyết điểm đáng buồn trong bản chất con người.)
2
Lập luận cho rằng người lao động nên nhận được đủ để mua lại sản phẩm họ tạo ra chỉ là một hình thức đặc biệt của lập luận về “sức mua” nói chung. Quả thật, tiền lương của người lao động chính là sức mua của họ, điều này không sai. Nhưng cũng đúng không kém khi nói rằng thu nhập của mọi người — của người bán tạp hóa, của chủ nhà cho thuê, của ông chủ doanh nghiệp — là sức mua của họ để mua những gì người khác phải bán. Và một trong những điều quan trọng nhất mà những người khác phải tìm người mua, chính là dịch vụ lao động của họ.
Hơn nữa, tất cả những điều này đều có mặt trái của nó. Trong một nền kinh tế trao đổi, thu nhập của người này chính là chi phí của người khác. Mọi sự gia tăng tiền lương theo giờ, trừ khi hoặc cho đến khi được bù đắp bằng một mức tăng tương ứng về năng suất lao động theo giờ, đều là sự gia tăng chi phí sản xuất. Việc chi phí sản xuất tăng, trong khi chính phủ kiểm soát giá cả và cấm tăng giá bán, sẽ tước đi lợi nhuận từ những nhà sản xuất cận biên, buộc họ phải phá sản, dẫn đến sản lượng sụt giảm và tỷ lệ thất nghiệp tăng. Ngay cả khi việc tăng giá là có thể, thì mức giá cao hơn cũng sẽ khiến người mua nản lòng, thu hẹp thị trường, và kết quả cuối cùng cũng là thất nghiệp. Nếu mức lương theo giờ tăng 30% trên diện rộng dẫn đến giá cả cũng tăng 30%, thì người lao động cũng không thể mua được nhiều sản phẩm hơn so với ban đầu; và vòng xoay luẩn quẩn đó lại bắt đầu một lần nữa.
Chắc chắn nhiều người sẽ có khuynh hướng phản đối lập luận cho rằng việc tăng lương 30% có thể buộc giá cả cũng phải tăng tương ứng đến mức đó. Đúng là kết quả này chỉ có thể xảy ra trong dài hạn và chỉ khi chính sách tiền tệ và tín dụng cho phép điều đó xảy ra. Nếu lượng tiền và tín dụng co giãn kém đến mức chúng không tăng lên khi tiền lương tăng (và nếu ta giả định rằng mức lương cao hơn không được biện minh bởi năng suất lao động hiện tại tính theo giá trị đồng đô la), thì tác động chính của việc tăng lương sẽ là gây ra tình trạng thất nghiệp.
Và trong trường hợp đó, rất có khả năng tổng quỹ lương, xét cả về giá trị đồng đô la và sức mua thực tế, sẽ thấp hơn trước. Bởi vì một sự sụt giảm trong việc làm (do chính sách của công đoàn gây ra, chứ không phải là kết quả chuyển tiếp của tiến bộ công nghệ) đồng nghĩa với việc ít hàng hóa hơn được sản xuất cho mọi người. Và khó có khả năng là người lao động sẽ bù đắp được sự sụt giảm tuyệt đối trong sản xuất bằng cách nhận được một phần tương đối lớn hơn trong phần sản lượng còn lại. Thật vậy, Paul H. Douglas ở Mỹ và A. C. Pigou ở Anh, người thứ nhất phân tích một khối lượng lớn số liệu thống kê, người thứ hai bằng các phương pháp gần như thuần suy luận, đã độc lập với nhau rút ra cùng một kết luận rằng độ co giãn của cầu lao động nằm trong khoảng từ -3 đến -4. Nói theo cách đơn giản hơn, điều này có nghĩa là “một mức giảm 1% trong mức lương thực tế có khả năng làm tổng cầu lao động tăng lên ít nhất là 3%.” Hay nói theo chiều ngược lại, “Nếu tiền lương bị đẩy lên cao hơn mức năng suất cận biên, thì mức sụt giảm trong việc làm thường sẽ lớn gấp ba đến bốn lần mức tăng của tiền lương theo giờ”, và vì vậy, tổng thu nhập của người lao động sẽ giảm tương ứng.
Ngay cả khi những con số này chỉ phản ánh độ co giãn của cầu lao động trong một giai đoạn nhất định trong quá khứ, và không nhất thiết phải dự báo cho tương lai, thì chúng vẫn đáng được xem xét một cách nghiêm túc.
3
Nhưng bây giờ chúng ta hãy giả sử rằng việc tăng mức lương được đi kèm hoặc theo sau bởi một sự gia tăng tương ứng về lượng tiền và tín dụng, sao cho nó có thể diễn ra mà không gây ra tình trạng thất nghiệp nghiêm trọng. Nếu ta giả định rằng mối quan hệ trước đó giữa tiền lương và giá cả vốn đã là một mối quan hệ “bình thường” về dài hạn, thì rất có khả năng việc tăng lương bắt buộc, chẳng hạn 30%, cuối cùng sẽ dẫn đến việc giá cả tăng gần như tương đương.
Niềm tin rằng mức tăng giá sẽ thấp hơn đáng kể so với con số đó dựa trên hai ngụy biện chính. Ngụy biện đầu tiên là chỉ nhìn vào chi phí lao động trực tiếp của một doanh nghiệp hoặc một ngành cụ thể và cho rằng những chi phí này đại diện cho tất cả những chi phí lao động liên quan. Nhưng đây là lỗi sơ đẳng khi nhầm lẫn một bộ phận với tổng thể. Mỗi “ngành” không chỉ đại diện cho một phân đoạn trong quá trình sản xuất “theo chiều ngang,” mà còn chỉ là một lát cắt của quá trình đó “theo chiều dọc.” Chẳng hạn, chi phí lao động trực tiếp để sản xuất ô tô tại các nhà máy ô tô có thể chỉ chiếm chưa đến một phần ba tổng chi phí; và điều này có thể khiến những người thiếu thận trọng kết luận rằng việc mức tăng lương 30% sẽ chỉ làm giá ô tô tăng 10% hoặc ít hơn. Nhưng cách nghĩ đó đã bỏ qua các chi phí lao động gián tiếp trong nguyên liệu thô và linh kiện mua ngoài, chi phí vận chuyển, chi phí xây nhà máy mới hoặc mua máy móc mới, hay phần lợi nhuận của các đại lý bán hàng.
Các ước tính của chính phủ cho thấy rằng trong giai đoạn mười lăm năm từ 1929 đến 1943, tiền công và tiền lương ở Hoa Kỳ chiếm trung bình 69% thu nhập quốc dân. Tất nhiên, khoản tiền công và tiền lương này phải được chi trả từ tổng sản phẩm quốc dân. Mặc dù cần phải có cả những khoản trừ và cộng vào con số này để đưa ra một ước tính công bằng về thu nhập của “lao động”, nhưng dựa trên cơ sở đó, ta có thể giả định rằng chi phí lao động không thể thấp hơn khoảng hai phần ba tổng chi phí sản xuất và có thể vượt quá ba phần tư (tùy vào cách chúng ta định nghĩa “lao động”). Nếu ta lấy mức ước tính thấp hơn trong hai con số này và cũng giả định rằng biên lợi nhuận tính theo đô la không thay đổi, thì rõ ràng là mức tăng 30% chi phí tiền lương trên toàn bộ chuỗi sản xuất sẽ đồng nghĩa với việc giá cả tăng gần 20%.
Nhưng một sự thay đổi như vậy sẽ đồng nghĩa với việc biên lợi nhuận tính theo đô la, đại diện cho thu nhập của các nhà đầu tư, nhà quản lý và người tự kinh doanh, sẽ chỉ còn khoảng 84% sức mua so với trước đó. Tác động lâu dài của điều này sẽ là sự suy giảm về đầu tư và các doanh nghiệp mới so với mức mà lẽ ra có thể đạt được, kéo theo sự chuyển dịch lao động từ các cấp bậc thấp hơn trong nhóm người tự kinh doanh sang các cấp bậc cao hơn trong nhóm người làm công ăn lương, cho đến khi các mối quan hệ trước đó được khôi phục tương đối. Nhưng đó cũng chỉ là một cách khác để nói rằng mức tăng 30% tiền lương theo những điều kiện được giả định cuối cùng cũng sẽ đồng nghĩa với việc giá cả tăng 30%.
Điều đó không nhất thiết có nghĩa là người lao động làm công ăn lương sẽ không đạt được lợi ích tương đối nào. Họ sẽ có được một lợi ích tương đối, và các nhóm khác trong dân số sẽ chịu một sự thiệt hại tương đối, trong giai đoạn chuyển tiếp. Nhưng khó có khả năng lợi ích tương đối này sẽ trở thành lợi ích tuyệt đối. Bởi vì kiểu thay đổi trong mối quan hệ giữa chi phí và giá cả được xem xét ở đây khó có thể xảy ra mà không kéo theo tình trạng thất nghiệp và sản xuất mất cân đối, gián đoạn hoặc bị thu hẹp. Do đó, trong khi người lao động có thể giành được một phần lớn hơn của cái “bánh” kinh tế nhỏ hơn trong thời kỳ chuyển tiếp và điều chỉnh hướng đến một trạng thái cân bằng mới, thì vẫn có thể nghi ngờ rằng phần lớn hơn đó liệu có thực sự lớn hơn về mặt tuyệt đối (và rất có thể là nhỏ hơn) so với phần nhỏ hơn nhưng trong một cái bánh lớn hơn trước đây hay không.
4
Điều này đưa chúng ta đến với ý nghĩa và tác động tổng quát của trạng thái cân bằng kinh tế. Tiền lương và giá cả ở trạng thái cân bằng là mức lương và giá cả làm cho cung và cầu cân đối. Nếu, dù bởi sự can thiệp của chính phủ hay do sự ép buộc từ khu vực tư nhân, người ta cố nâng giá lên cao hơn mức cân bằng, thì cầu sẽ giảm và do đó sản xuất cũng sẽ giảm. Nếu người ta cố đẩy giá xuống dưới mức cân bằng, thì việc lợi nhuận bị cắt giảm hoặc bị xóa sổ sẽ dẫn đến sự suy giảm trong nguồn cung hoặc sản lượng mới. Vì vậy, mọi nỗ lực nhằm ép giá lên trên hoặc xuống thấp hơn mức cân bằng (vốn là mức mà thị trường tự do luôn hướng tới) đều sẽ dẫn đến việc làm và sản lượng bị giảm xuống dưới mức mà lẽ ra có thể đạt được.
Quay lại với học thuyết cho rằng lao động phải được trả “đủ để mua lại sản phẩm.” Ta cần nhận thấy một điều rõ ràng rằng sản phẩm quốc gia không chỉ được tạo ra hay tiêu thụ bởi riêng lực lượng lao động trong ngành sản xuất. Nó được mua bởi tất cả mọi người –- bởi nhân viên văn phòng, giới chuyên gia, nông dân, các chủ doanh nghiệp lớn nhỏ, nhà đầu tư, người bán tạp hóa, người bán thịt, chủ các hiệu thuốc và trạm xăng nhỏ lẻ — nói ngắn gọn, bởi tất cả những người góp phần vào việc làm ra sản phẩm đó.
Đối với giá cả, tiền lương và lợi nhuận, những yếu tố quyết định việc phân phối sản phẩm, thì giá tốt nhất không phải là giá cao nhất, mà là mức giá khuyến khích được khối lượng sản xuất lớn nhất và khối lượng tiêu thụ lớn nhất. Mức lương tốt nhất cho người lao động không phải là mức lương cao nhất, mà là mức lương cho phép đạt được sản lượng tối đa, việc làm đầy đủ và quỹ lương duy trì ở mức cao nhất có thể. Lợi nhuận tốt nhất, xét từ góc độ không chỉ của ngành công nghiệp mà cả của người lao động, không phải là mức lợi nhuận thấp nhất, mà là mức lợi nhuận khuyến khích được nhiều người nhất trở thành chủ sử dụng lao động hoặc tạo ra nhiều việc làm hơn trước.
Nếu chúng ta cố điều hành nền kinh tế vì lợi ích của một nhóm hay một giai cấp duy nhất, thì chúng ta sẽ gây tổn hại hoặc hủy hoại tất cả các nhóm, bao gồm cả chính những thành viên của giai cấp mà chúng ta cố gắng ưu tiên. Chúng ta phải điều hành nền kinh tế vì lợi ích của tất cả mọi người.
