Tác giả: Stephen Cimbala & Lawrence Korb.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.
Thách thức lớn nhất sẽ là đảm bảo rằng Nga không khôi phục tham vọng chiếm nốt phần còn lại của Ukraine khi có cơ hội.
Donald Trump, với tư cách là ứng cử viên tổng thống năm 2024 và nay là tổng thống năm 2025, đã bày tỏ ý định đạt được một thỏa thuận hòa bình nhằm chấm dứt cuộc chiến ba năm giữa Nga và Ukraine thông qua việc đàm phán trực tiếp với tổng thống Nga Vladimir Putin. Cuộc xâm lược của Nga vào Ukraine, bắt đầu từ tháng 2 năm 2022, đã cướp đi sinh mạng của nhiều người Ukraine và Nga, đồng thời khiến phần lớn cơ sở hạ tầng của Ukraine bị tàn phá.
Tổng thống Ukraine Volodymyr Zelensky, về phần mình, yêu cầu được tham gia vào bất kỳ cuộc đàm phán hòa bình nào. Các quốc gia lớn ở châu Âu đã bày tỏ sẵn sàng đóng góp lực lượng gìn giữ hòa bình sau khi thỏa thuận được ký kết và triển khai tại Ukraine, đồng thời họ cũng yêu cầu được tham gia vào bất kỳ cuộc đàm phán nào.
Mặc dù lập luận về một thỏa thuận hòa bình ở Ukraine là thuyết phục từ góc độ nhân đạo, và ngay cả khi Ukraine và các đồng minh châu Âu tham gia vào các cuộc đàm phán, việc tìm ra các giao thức đúng đắn để thực hiện sứ mệnh này một cách thỏa đáng cho tất cả các bên, đặc biệt là Nga, vẫn là một thử thách lớn đối với những người tham gia đàm phán cùng các hỗ trợ viên và đối tác của họ. Mục tiêu và cấu trúc của các cuộc đàm phán như vậy phải bao gồm:
(1) Sắp xếp một lệnh ngừng bắn tại một thời điểm được Ukraine và Nga thống nhất;
(2) Quy định các lực lượng của mỗi bên có thể tiếp tục đồn trú trên lãnh thổ Ukraine sau khi ngừng bắn và trong quá trình đàm phán tiếp theo. Với mục đích này, Crimea sẽ được coi là lãnh thổ của Nga, nhưng tình trạng của các tỉnh và thị trấn khác ở phía đông và phía nam Ukraine sẽ là chủ đề cho các cuộc thảo luận tiếp theo.
(3) Trong quá trình đàm phán, không bên nào được phép tiến hành các cuộc tấn công tầm ngắn hoặc tầm xa bằng lực lượng trên bộ, hải quân hoặc không quân đối với lực lượng của bên kia, cũng như đối với dân cư trong các khu vực ảnh hưởng của mỗi bên; điều khoản này bao gồm cả các hoạt động bí mật sử dụng lực lượng ủy nhiệm hoặc chiến tranh không chính quy, hành động bí mật.
(4) Các quốc gia hoặc nhóm quốc gia tham gia các cuộc đàm phán nên bao gồm, ngoài Ukraine và Nga, các quốc gia sau: Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc và Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (OSCE). Các quan sát viên đại diện cho các quốc gia và tổ chức quan tâm khác có thể được mời tham gia, bao gồm cả từ NATO và Liên minh Châu Âu.
Các mục tiêu dài hạn của các nhà đàm phán sẽ phải bao gồm việc thiết lập một lộ trình rút quân của tất cả các lực lượng chiến đấu nước ngoài khỏi Ukraine, ngoại trừ lực lượng Nga đóng quân tại các khu vực trước đây của Ukraine mà Nga tuyên bố chủ quyền, và sau đó được Ukraine cùng các đồng minh ở Hoa Kỳ và NATO công nhận là lãnh thổ của Nga.
Ngoài ra, một hệ thống giám sát và xác minh sẽ phải được thiết lập thông qua một thỏa thuận hiệp ước, và một lực lượng đa quốc gia sẽ được thành lập để triển khai dọc theo đường kiểm soát giữa lãnh thổ Nga và Ukraine, cũng như những khu vực khác trong Ukraine nếu cần thiết. Lực lượng gìn giữ hòa bình lý tưởng sẽ có từ 50.000 đến 100.000 binh sĩ bộ binh, được hỗ trợ bởi các lực lượng khác và các cơ quan tình báo. Tuy nhiên, trong các tình huống khẩn cấp, một lực lượng nhỏ hơn đôi chút vẫn có thể hoàn thành nhiệm vụ một cách hiệu quả.
Uy tín của một lực lượng gìn giữ hòa bình phụ thuộc không chỉ vào quy mô mà còn vào nhiệm vụ và sự hợp tác của các quốc gia tham gia thỏa thuận. Lực lượng gìn giữ hòa bình không phải là lực lượng chiến đấu, mà là lực lượng quan sát và báo cáo tình hình khi các sự kiện xảy ra. Lực lượng gìn giữ hòa bình cần có các quy tắc tham chiến rõ ràng và quyền tự vệ nếu bị tấn công. Các bên đàm phán sẽ quyết định các quốc gia có thể đóng góp cho lực lượng gìn giữ hòa bình. Lực lượng này nên được đặt dưới sự bảo trợ của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc, bất kể quốc gia thành viên, để hợp pháp hóa vị thế của nó trong cộng đồng quốc tế. Các quốc gia thành viên NATO và Nga không nên cử quân đội tham gia lực lượng này, mặc dù các quan sát viên Ukraine và Nga nên được phép có mặt trong khu vực phi quân sự ngăn cách hai bên.
Mục tiêu cuối cùng của các cuộc đàm phán nên là chuyển từ đường kiểm soát tạm thời và khu vực phi quân sự ngay sau khi ký kết hiệp định đình chiến sang một sự phân định lâu dài và bền vững giữa lãnh thổ Nga và lãnh thổ Ukraine. Điều này sẽ phải được phác thảo chi tiết và thống nhất bởi tất cả các bên tham gia trước khi thực hiện các bước tiếp theo, bao gồm việc di chuyển các lực lượng quân sự của Ukraine và Nga đến các khu vực đã thỏa thuận sau hiệp định. Thách thức sau đó sẽ là biến các khu vực phân chia này thành những thực thể chính trị có sự gắn kết và có thể phòng thủ quân sự, đặc biệt là ở phía Ukraine.
Thách thức lớn hơn sẽ là đảm bảo rằng Nga không vi phạm và khôi phục tham vọng nuốt chửng phần còn lại của Ukraine khi có cơ hội. Mục tiêu này yêu cầu sự hỗ trợ của Hoa Kỳ, Liên minh Châu Âu và NATO đối với Ukraine tự do, bao gồm hỗ trợ quân sự để răn đe, viện trợ kinh tế để tái xây dựng nền kinh tế bị tàn phá, và trên hết, đảm bảo an ninh để ngăn chặn một cuộc tấn công lặp lại của Nga như năm 2022.
Các đảm bảo an ninh nên quy định rằng các bên bảo lãnh cam kết bảo vệ một Ukraine độc lập, chủ quyền và dân chủ cùng với các biên giới sau thỏa thuận, và mọi hành động xâm lược tiếp theo sẽ yêu cầu các bước ngoại giao và quân sự kịp thời từ Hoa Kỳ, NATO và EU, nhằm khôi phục lại tình hình như trước. Trong trường hợp Nga tiến hành một cuộc tấn công quân sự lớn vào Ukraine như năm 2022, Hoa Kỳ và NATO sẽ phản ứng ngay lập tức với một loạt các biện pháp chính trị, kinh tế và quân sự.
Các lựa chọn quân sự nên được phát triển trong quá trình huấn luyện các lực lượng quân sự của NATO, châu Âu và Hoa Kỳ sau thỏa thuận hòa bình, trong các kịch bản từ chiến tranh hạn chế đến cuộc đối đầu toàn diện giữa NATO và Nga. Nga không nên có bất kỳ nghi ngờ nào rằng mọi hành động xâm lược tiếp theo đối với Ukraine sẽ phải đối mặt với lực lượng quân sự thích hợp, sự thuyết phục ngoại giao và cưỡng chế kinh tế. Nga nên kỳ vọng rằng họ sẽ phải đối mặt với một loạt các phản ứng đảm bảo sự cô lập chính trị quốc tế và thất bại quân sự của mình.
Mặc dù các cuộc đàm phán này có thể chấm dứt cuộc khủng hoảng hiện tại, việc đạt được một “kết thúc chiến tranh chiến lược” ở châu Âu không chỉ có nghĩa là làm suy yếu sự xâm lược của Putin đối với Ukraine, mà còn là ngăn chặn rộng rãi hơn những hành động phiêu lưu quân sự và cưỡng ép chính trị của ông đối với châu Âu tự do trong suốt phần còn lại nhiệm kỳ của ông. Mặc dù đang tạm thời bị đình trệ tại Ukraine, Putin có thể sẽ chuyển sang các mục tiêu khác. Các quốc gia Baltic đặc biệt nhận thức rõ điều này và đã đi đầu trong việc chuẩn bị của NATO đối phó với sự phục thù của Nga trong tương lai. Các quốc gia Bắc Âu, cùng với các quốc gia khác, đã tăng cường khả năng chuẩn bị cho phòng thủ dân sự và các khía cạnh khác của việc lập kế hoạch cho một cuộc chiến kéo dài với Nga nếu tình huống này xảy ra.
Sự xâm lược của Nga đối với một quốc gia thành viên NATO làm gia tăng mức độ rủi ro vượt quá khả năng chịu đựng của họ khi so với việc cố gắng thay đổi chế độ tại Ukraine. NATO bao gồm ba quốc gia thành viên cũng sở hữu các lực lượng hạt nhân tầm xa (Hoa Kỳ, Vương quốc Anh và Pháp), và mỗi lực lượng hạt nhân này đều có tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo, vốn không dễ bị tấn công phủ đầu. Nga có nhiều vũ khí hạt nhân phi chiến lược hoặc hạt nhân chiến thuật hơn NATO, và một số người lo ngại rằng điều này tạo ra một khoảng cách răn đe giữa Nga và NATO dưới mức của các lực lượng hạt nhân tầm xa. Tuy nhiên, mối đe dọa sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu tiên của Nga đã được Putin đưa ra nhiều lần trong suốt cuộc chiến ở Ukraine và dường như không có tác động lớn đến quyết tâm của NATO trong việc kiên trì mục tiêu của mình.
Tương lai của quan hệ giữa Hoa Kỳ, NATO và EU với Nga còn rất mở, hơn là những gì các sự kiện hiện tại có thể gợi ý. Putin chắc chắn nắm giữ quyền lực tuyệt đối ở Nga và một thế giới hậu Putin không phải là điều sắp xảy ra. Tuy nhiên, không nên loại trừ khả năng Nga sẽ có những quyết định thực dụng hơn về chiến tranh và hòa bình khi thập kỷ tiếp theo trôi qua. Putin và các cố vấn của ông phải nhận ra rằng những kỳ vọng của họ về khả năng thực hiện chiến tranh có tính kết hợp hiện đại của Nga đối với Ukraine (và có thể là NATO) đã bị suy yếu nghiêm trọng. Chiến tranh hiện đại không chỉ đơn giản là sự thành thạo trong các cuộc tấn công bộ binh quy mô lớn, pháo binh tầm xa và sức mạnh không quân chiến thuật trang bị bom trượt hoặc các vũ khí tấn công khác. Các công nghệ mới, bao gồm drone, bộ công cụ C3ISR (chỉ huy, điều khiển, thông tin liên lạc, tình báo, giám sát và trinh sát) tiên tiến, và chiến tranh mạng, đã tạo ra một chủ đề chung về chiến trường dựa trên thông tin, vượt ra ngoài những cuộc đụng độ dữ dội bằng sức mạnh quân sự.
Ngoài việc cần phải làm mới lại các chiến thuật và chiến lược quân sự, Nga cũng cần phải suy nghĩ lại về hành vi ngoại giao và chiến lược của mình. Một kết quả của cuộc chiến Nga chống lại Ukraine là việc mở rộng NATO lên 32 quốc gia thành viên, bao gồm cả Thụy Điển và Phần Lan, vốn trước đây là các quốc gia trung lập. Mặc dù Putin và lãnh đạo Trung Quốc Tập Cận Bình đã thiết lập một dạng liên minh về một số vấn đề liên quan đến chuẩn bị quân sự và chính sách đối ngoại, sự ủng hộ của Trung Quốc đối với hành động xâm lược của Nga ở châu Âu vẫn có điều kiện, phụ thuộc vào mức độ và mức độ nguy hiểm của tham vọng Nga.
Trung Quốc có lợi ích kinh tế rộng lớn ở châu Âu và, nếu mọi yếu tố khác giữ nguyên, sẽ ưu tiên một môi trường thân thiện với đầu tư và ổn định kinh tế hơn là triển vọng kinh tế không chắc chắn trong bối cảnh chiến tranh. Cuối cùng, Trung Quốc đã chỉ ra rất rõ ràng sự phản đối đối với việc Nga sử dụng vũ khí hạt nhân lần đầu tiên trong cuộc chiến hiện tại chống lại Ukraine, và quan điểm của Trung Quốc về thỏa thuận hòa bình hậu chiến sẽ là một dấu mốc quan trọng về khả năng bền vững của nó trong hệ thống quốc tế rộng lớn hơn ngoài châu Âu.
Stephen Cimbala là Giáo sư Xuất sắc về Khoa học Chính trị tại Đại học Penn State Brandywine và là tác giả của nhiều cuốn sách và bài viết về các vấn đề an ninh quốc tế.
Lawrence Korb, một đại tá Hải quân đã nghỉ hưu, đã đảm nhận các vị trí an ninh quốc gia tại nhiều tổ chức nghiên cứu và từng phục vụ tại Lầu Năm Góc trong chính quyền Reagan.
Nguồn: Stephen Cimbala & Lawrence Korb, “How To End The Russia-Ukraine War,” The National Interest, 7/3/2025.