Con đường dài dẫn đến việc từ chức của Trudeau

Tác giả: Stuart A. Reid.

Thủ tướng Canada là nạn nhân mới nhất của phong trào phản đối các chính quyền đương nhiệm trên toàn cầu — theo nhiều cách khác nhau.

Tại Ottawa lạnh giá, thủ tướng Canada bắt đầu suy nghĩ về tương lai chính trị của mình. Rất nhiều điều đã thay đổi kể từ khi ông được bầu lần đầu tiên. Sự phấn khích xung quanh sức trẻ, chủ nghĩa đa văn hóa và sự hấp dẫn giới tính của ông — những yếu tố đã giúp ông lên nắm quyền — “Trudeaumania”, như báo chí gọi nó, đã tan biến. Các nhà phê bình gọi ông là kiêu ngạo và thiếu kết nối với thực tế. Ngay cả cuộc sống cá nhân của ông cũng không còn hào nhoáng, khi ông và người vợ xinh đẹp đang trong quá trình ly dị.

Vận may chính trị của ông cũng giảm sút vì những lý do cụ thể. Người dân Canada đã chán ngấy với tình trạng lạm phát cao và thâm hụt ngân sách ngày càng tăng, những đặc trưng trong cách điều hành nền kinh tế của ông. Nhiều người không thích chính sách năng lượng của ông, đặc biệt là ở miền Tây Canada. Nhiều người lo ngại về mối quan hệ xấu với Hoa Kỳ dưới thời Tổng thống đảng Cộng hòa.

Trong Đảng Tự do của ông, những mũi dao bắt đầu xuất hiện; trong khi đó, đảng bảo thủ, dưới sự lãnh đạo của người đứng đầu trẻ tuổi, lại trở nên hăng hái hơn. Thực tế, trên toàn cầu, đảng bảo thủ dường như đang có động lực mạnh mẽ, trong khi đảng tự do phải đối mặt với sự phản đối vì các chính sách không được lòng người dân. Thời thế đã vượt qua Trudeau. Và sau một nhiệm kỳ kéo dài suốt nhiều thập kỷ, ông quyết định: đã đến lúc phải từ chức.

Đây không chỉ là câu chuyện của Justin Trudeau, người đã thông báo vào thứ Hai rằng ông sẽ từ chức lãnh đạo Đảng Tự do, mở đường cho việc chọn ra thủ tướng mới đầu tiên của Canada sau gần một thập kỷ. Đây cũng là câu chuyện của cha ông, Pierre Elliott Trudeau, người đã từ chức vào năm 1984 sau khi nắm quyền kể từ năm 1968, trừ một giai đoạn giữ vị trí đối lập kéo dài chín tháng, . Cuối cùng, cả hai thủ tướng đều bị đánh bại bởi những xu hướng toàn cầu mà họ gặp khó khăn trong việc đối phó.

Tất nhiên, có sự khác biệt trong chính sách giữa hai người. Về vấn đề nhập cư, cả hai cha con Trudeau đều chú trọng đến việc chào đón những người tị nạn, đặc biệt là từ các quốc gia có đa số dân không phải là người da trắng, nhưng so với chính sách nhập cư của con trai mình, chính sách của Pierre khá hà khắc. Số lượng người nhập cư thực tế đã giảm trong ba năm cuối cùng ông nắm quyền, kết thúc ở mức 89.000 người vào năm 1983 — tức là 3,5 người trên mỗi 1.000 dân. Vào năm 2024, khoảng 485.000 người nhập cư đã đến Canada — tức là 12 người trên mỗi 1.000 dân.

Về vấn đề năng lượng, nguyên nhân thất bại của Trudeau cha là Chương trình Năng lượng Quốc gia, một kế hoạch mang tính can thiệp từ nhà nước với các biện pháp kiểm soát giá cả, đã làm xa lánh các tỉnh miền Tây của Canada. Trudeau con không thực hiện bất kỳ biện pháp cực đoan hay không được ưa chuộng nào như vậy, mặc dù thuế carbon của ông đã gây chia rẽ trong dư luận Canada. Các vấn đề kinh tế cụ thể cũng khác nhau: lạm phát và tỷ lệ thất nghiệp cao hơn rất nhiều khi Trudeau cha từ chức, trong khi hiện nay, tăng trưởng GDP lại đang gặp khó khăn hơn.

Tuy nhiên, trong cả hai trường hợp, những cú sốc đối với việc làm, giá cả và tăng trưởng đã tạo ra một làn sóng phản đối mạnh mẽ đối với các chính quyền đương nhiệm trên toàn cầu. Vào thập niên 1980, điều này thể hiện qua cuộc cách mạng thị trường tự do của Reagan và Thatcher, một làn sóng đã lan rộng ra ngoài cả Hoa Kỳ và Vương quốc Anh — thúc đẩy Tổng thống xã hội chủ nghĩa của Pháp, François Mitterrand, chấp nhận chính sách thắt lưng buộc bụng, và đưa lãnh đạo Đảng Bảo thủ Canada, Brian Mulroney, vào văn phòng thủ tướng sau khi Trudeau từ chức.

Làn sóng phản đối các chính quyền đương nhiệm hiện nay còn mạnh mẽ hơn, và Justin Trudeau chỉ là nạn nhân mới nhất. Hãy thêm tên ông vào danh sách các nhà lãnh đạo dân chủ đã chịu thất bại trong các cuộc bầu cử hoặc bị đánh bại hoàn toàn trong năm qua: Joe Biden và Kamala Harris ở Hoa Kỳ, Rishi Sunak ở Vương quốc Anh, Emmanuel Macron ở Pháp, Olaf Scholz ở Đức, Cyril Ramaphosa ở Nam Phi, Narendra Modi ở Ấn Độ, Yoon Suk Yeol ở Hàn Quốc, và Fumio Kishida ở Nhật Bản. Giống như cử tri ở các quốc gia khác, người dân Canada đã trừng phạt giới tinh hoa chính trị của họ vì các chính sách COVID-19 mà họ cho là quá hạn chế, các chính sách tài khóa mà họ cho là gây lạm phát (và trong nhiều trường hợp, mặc dù không phải tất cả, các chính sách nhập cư mà họ cho là quá dễ dãi).

Canada là một quốc gia theo chủ nghĩa tiến bộ, nơi mà các vấn đề như y tế xã hội, quyền phá thai, kiểm soát súng và quyền của người đồng tính không phải là những vấn đề gây tranh cãi nóng bỏng, mà là những câu hỏi đã được giải quyết từ lâu. Tuy nhiên, đó không phải là một chủ nghĩa tiến bộ thuần túy. Như Trudeau đã nhận ra, có những giới hạn đối với xu hướng tự do của người Canada. Về vấn đề nhập cư, cuối cùng thì người bỏ phiếu trung bình lại có quan điểm bảo thủ hơn ông (một bài học mà Harris cũng đã học được). Chính sách của ông rõ ràng không được ưa chuộng, đặc biệt là vì cách mà dân số ngày càng tăng đã đẩy giá nhà lên cao và gây áp lực lên hệ thống chăm sóc sức khỏe. Vào tháng Mười, ông đã thay đổi hoàn toàn, công bố rằng sẽ bỏ mục tiêu hàng năm về số lượng cư dân thường trú mới, giảm hơn 100.000 người.

Cuộc khủng hoảng bản sắc này rõ ràng nhất trong chính sách kinh tế. Bản chất của nền kinh tế Canada luôn kéo đất nước này về phía bên phải. Mặc dù không phải là một Saudi Arabia với tuyết và các cuộc bầu cử, Canada phụ thuộc rất nhiều vào sản xuất dầu khí cùng với ngành khai thác mỏ, điều này giải thích tại sao các chính sách môi trường của Canada từ lâu đã thân thiện hơn với ngành công nghiệp so với những gì người ta có thể mong đợi, và cũng lý giải vì sao các chính sách khí hậu của Trudeau kém được ưa chuộng hơn so với những gì có thể xảy ra ở các nước như Đan Mạch. Canada cũng là một nước xuất khẩu lớn với các sản phẩm sản xuất trong nước, điều này giải thích tại sao các thủ tướng Canada từ mọi đảng phái chính trị đều là những người ủng hộ tự do thương mại.

Tuy nhiên, khác với những nhà lãnh đạo đã bị thất bại khác, Trudeau phải đối mặt với một tác động thứ hai đặc biệt của làn sóng phản đối các chính quyền đương nhiệm: sự thay đổi chính phủ ở quốc gia láng giềng, đồng minh gần gũi nhất và đối tác thương mại lớn nhất của Canada. Pierre Trudeau từng nói đùa rằng việc sống cạnh Hoa Kỳ giống như “ngủ cùng một con voi: bất kể con vật đó có thân thiện hay điềm tĩnh đến đâu, ta vẫn bị ảnh hưởng bởi mọi cử động và tiếng rống của nó.” Và vào tháng Mười Một, người Mỹ đã tái bầu một nhà lãnh đạo mà phần lớn người Canada cho là không thân thiện cũng chẳng điềm tĩnh.

Theo đuổi lợi ích của Canada mà không làm phật lòng Hoa Kỳ là một nhiệm vụ khó khăn ngay cả trong những thời kỳ tốt nhất, nhưng nhiệm vụ đó đã trở nên không thể đối với Trudeau sau chiến thắng bầu cử lần thứ hai của Donald Trump. Mối quan hệ giữa hai nhà lãnh đạo rất tệ trong nhiệm kỳ đầu của Trump: vào năm 2018, sau khi Trudeau hứa rằng Canada sẽ “không để bị bắt nạt” về vấn đề thuế quan, Trump đã gọi ông là “yếu đuối” và “gian dối”, và tại một hội nghị thượng đỉnh NATO năm 2019, Trudeau bị bắt gặp trên camera đang đùa giỡn với các lãnh đạo khác về những hành động thất thường của Trump. Và mối quan hệ giữa họ có xu hướng sẽ còn tồi tệ hơn trong nhiệm kỳ thứ hai của Trump.

Vào tháng Mười Một, sau khi Trump cam kết sẽ áp thuế 25% đối với tất cả hàng hóa của Canada, Trudeau đã đến Mar-a-Lago, hứa hẹn tăng cường an ninh biên giới để làm dịu lòng tổng thống sắp nhậm chức. Tuy nhiên, điều này không có tác dụng: vào tháng sau, Trump đã chế giễu Trudeau trên mạng xã hội, gọi ông là “thống đốc” của “bang” Canada. Bất kỳ thủ tướng Canada nào cũng đều phải đối mặt với mối quan hệ căng thẳng với Trump, do những xu hướng bảo vệ thương mại của ông, nhưng không ai bị tác động nhiều như Trudeau, vì lịch sử của họ, một thực tế mà ngay cả những người ủng hộ ông cũng phải thừa nhận. Trudeau có lẽ cũng không thể trụ vững lâu trong một chính quyền của Harris, nhưng chiến thắng bầu cử của Trump đã định đoạt số phận của ông.

Lịch sử quan hệ giữa Canada và Hoa Kỳ thường căng thẳng khi các nhà lãnh đạo của họ thuộc về những đảng phái chính trị đối lập. Richard Nixon từng gọi Pierre Trudeau là “một kẻ tự cao, trí thức vớ vẩn” và là “thằng khốn nạn.” (Trudeau đáp lại trong hồi ký của mình rằng ông “đã bị gọi những từ tệ hơn bởi những người có phẩm chất tốt hơn.”) Trudeau có mối quan hệ tốt hơn với Ronald Reagan, mặc dù tổng thống Mỹ sau này nhớ lại rằng ông đã “rất kinh hoàng vì sự thô lỗ” của Trudeau tại một hội nghị G-7 ở London.

Mulroney lên nắm quyền với lời hứa “tái thiết quan hệ với Hoa Kỳ, người bạn tốt nhất và gần gũi nhất của chúng ta” và cuối cùng đã trở thành bạn thân của Reagan. Có lẽ chưa bao giờ có một cuộc thể hiện sự ấm áp nào lớn hơn giữa các nhà lãnh đạo của hai quốc gia này ngoài “Hội nghị Shamrock”, bắt đầu vào Ngày lễ Thánh Patrick năm 1985 và kết thúc với việc hai nhà lãnh đạo, đều có nguồn gốc Ireland, cùng hát bài “When Irish Eyes Are Smiling.” (Thật hợp lý, Mulroney đã đọc điếu văn tại lễ tang của Reagan.)

Người kế nhiệm đảng Tự do của Mulroney, Jean Chrétien, đã có mối quan hệ rất tốt với Bill Clinton, dành nhiều giờ bên nhau trên sân golf. Tuy nhiên, Chrétien và người kế nhiệm ông, Paul Martin, cũng là một đảng viên đảng Tự do, đã mâu thuẫn với George W. Bush về Iraq và kế hoạch phòng thủ tên lửa của Mỹ. Và thế là mô hình quan hệ “nóng-lạnh” tiếp tục kéo dài, qua các cuộc bầu cử của Stephen Harper, Barack Obama, Justin Trudeau, Trump và Biden. Nếu Pierre Poilievre, lãnh đạo Đảng Bảo thủ, được bầu làm thủ tướng năm nay, như các cuộc khảo sát cho thấy ông có cơ hội tốt để giành chiến thắng, thì có thể kỳ vọng sẽ có một sự yên tĩnh nhất định giữa hai quốc gia. Trong một cuộc phỏng vấn podcast với nhà tâm lý học và bình luận viên bảo thủ Jordan Peterson, ông đã đề xuất với Trump về một “thỏa thuận lớn” mà hai nhà lãnh đạo có thể đạt được về thương mại.

Với việc Trudeau từ chức, Trump có thể giờ đây tưởng tượng rằng, cũng như ông có khả năng tác động đến các cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Cộng hòa và hủy bỏ các dự luật ở Quốc hội, ông cũng có thể gây ra sự sụp đổ của các nhà lãnh đạo nước ngoài. Theo cách này, bằng cách đối xử với nhà lãnh đạo của một đồng minh gần gũi như một đối thủ chính trị hèn mọn và đáng bị chế giễu, Trump đang thực hiện một ảo tưởng mà ông đã truyền đạt với Trudeau tại Mar-a-Lago và lặp lại vào thứ Hai: rằng Canada là “tiểu bang thứ 51.” Nhưng do những nguyên nhân lớn hơn, Trudeau đã bị cuốn đi khỏi văn phòng thủ tướng bởi chính làn sóng toàn cầu mà Trump đã cưỡi lên để trở lại Nhà Trắng.

Stuart A. Reid là một học giả cấp cao tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại và là tác giả của cuốn The Lumumba Plot.

Nguồn: Stuart A. Reid,The Long Road to Trudeau’s Resignation,” The National Interest, 9/1/2025. 

Biên dịch: Phong trào Duy Tân. 


Đăng ngày

trong

,