Trường phái kinh tế học Áo – Lược khảo. Chương 2: Những nguyên lí nền tảng của Trường phái kinh tế học Áo 

Tác giả: Eamonn Butler.

Dịch giả: Phạm Nguyên Trường. Hiệu đính: Nguyễn Đức Thành.

Chương 2. Những nguyên lí nền tảng của Trường phái kinh tế học Áo 

•           Các quyết định kinh tế vốn là xuất phát điểm của tất cả các hiện tượng kinh tế là của các cá nhân và không thể nào dự đoán được. 

•           Giá trị không nằm trong đồ vật, mà nằm trong đầu óc của những người coi món đồ đó là có giá trị. Buôn bán và giá cả xuất hiện chính là vì người ta đánh giá các món đồ đó một cách khác nhau. Thị trường đưa các món hàng hoá đến nơi chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Sở hữu tư nhân là yếu tố then chốt để có kết quả tốt nhất. 

•           Những biện pháp can thiệp của chính phủ và những chính sách sai lầm như lạm phát, làm gián đoạn tiến trình thị trường rất phức tạp này và luôn luôn dẫn tới những kết quả ngược lại với ý định ban đầu. 

Một số nguyên tắc chính hay các điểm nhấn thể hiện sự khác biệt về quan điểm của Trường phái kinh tế học Áo với quan điểm của các nhà kinh tế học dòng chính. Xin bắt đầu với mười nguyên tắc. Các nguyên tắc này chứa đựng tất cả các lĩnh vực của đề tài, từ bản chất của những hiện tượng mà các nhà kinh tế học phải nghiên cứu, đến giá cả xuất hiện như thế nào (và tầm quan trọng của giá cả trong việc hướng dẫn sản xuất và tiêu dùng), tới hoạt động của toàn bộ nền kinh tế, đến các quy định của chính sách. 

Thứ nhất, những điểm mang tính phương pháp luận có thể rất khó hiểu đối với nhiều người. Nhưng quan niệm rõ ràng về điều mà khoa học có thể và không thể nói với chúng ta về đời sống kinh tế của chúng ta là cực kì cần thiết, nếu chúng ta muốn giải thích mọi thứ một cách chính xác, và do đó, đúng là phải bắt đầu từ đây. 

Những nền tảng của kinh tế học

Thứ nhất, kinh tế học là nói về cá nhân. Vì kinh tế học là nói về sự lựa chọn. Chúng ta không thể có tất cả mọi thứ, vì vậy, chúng ta phải chọn những thứ quan trọng nhất đối với chúng ta: Ví dụ, chúng ta thích chiếc xe mới hay kì nghỉ hè? Đi chơi với bạn bè hay nghỉ ở nhà? Bao giờ cũng thế, chúng ta phải từ bỏ một thứ gì đó (ví dụ, tiền, thời gian và công sức) để có được thứ khác (ví dụ, một đôi giày mới hay một khu vườn được dọn). Đây là những quyết định kinh tế – ngay cả khi không liên quan đến tiền. Đấy là những câu hỏi về cách thức chúng ta so sánh các nguồn lực khan hiếm (xe ô tô, ngày lễ, bạn bè, giải trí, tiền bạc, thời gian, công sức) nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của chúng ta. Đấy là những câu hỏi mà kinh tế học nói tới. 

Và chỉ có các cá nhân liên quan mới đưa ra được những quyết định như thế mà thôi. Xã hội không lựa chọn, tập thể không có đời sống hay suy nghĩ của riêng mình, nhà nước có thể quyết định các vấn đề bằng các cuộc bầu cử, nhưng các cá nhân lại chọn cách bỏ phiếu. Vai trò của kinh tế học là tìm hiểu sự lựa chọn và ảnh hưởng của nó, và chúng ta chỉ có thể hiểu điều đó nếu chúng ta tập trung vào cách thức các cá nhân đưa ra quyết định. 

Thứ hai, kinh tế học khác khoa học tự nhiên. Vì nó nghiên cứu những đối tượng khác hẳn. Vật lí học nghiên cứu các đối tượng tự nhiên, có thể quan sát và đo lường được. Có thể biết được bản chất và hành vi của những đối tượng đó và các nhà khoa học có thể dựa vào đó mà đưa ra các dự đoán. Kinh tế học là nói về cách người ta lựa chọn, có nghĩa là nói về những thứ người ta thích và đánh giá cao, dự định và niềm tin của họ về thế giới. Đấy là những cảm xúc cá nhân, cảm xúc của mỗi người mà chúng ta không thể quan sát và đo lường – cũng như không thể dự đoán được. 

Điều chúng ta có thể làm là giải thích những lựa chọn của con người. Chúng ta có thể làm được việc này vì chúng ta cũng là những con người và chúng ta biết cách thức tư duy của chúng ta. Chúng ta có thể hiểu những sở thích, những giá trị, những dự định và niềm tin về thế giới bởi vì chúng ta trải nghiệm tất cả những tình cảm đó. Và chúng ta có thể gia tăng được hiểu biết bằng cách tìm cho ra logic của địa điểm mà những thứ này va chạm tới chúng ta – ví dụ, trên thực tế, thị trường và trao đổi diễn ra như thế nào. Nhưng nhà khoa học tự nhiên lại coi chúng ta như là đối tượng, đang bị các lực lượng bên ngoài xô đẩy, vì vậy mà họ bỏ lỡ mọi thứ bên trong chúng ta, tức là bỏ lỡ những thứ tạo động lực cho chúng ta và giải thích cách sống của chúng ta. 

Giá trị, giá cả và thị trường 

Thứ ba, mọi thứ trong kinh tế học đều dựa trên những giá trị mà con người coi trọng. Giá trị không phải là chất lượng nằm bên trong đối tượng và có thể đo đếm được, như kích thước hay trọng lượng của đối tượng. Cùng một món hàng, nhưng đối với những người khác nhau lại có giá trị khác nhau, tùy thuộc vào việc họ đánh giá giá trị sử dụng của nó. Một người ở đất nước có nhiều mưa có thể đánh giá thấp giá trị sử dụng của một cốc nước, nhưng một người nào đó đang đi trong sa mạc có thể đánh giá nó rất cao. Nhu cầu và đánh giá của con người luôn luôn thay đổi: Một người đang khát có thể đánh giá cao cốc nước, nhưng không đánh giá cao hơn khi họ không còn khát nữa. Do đó, hàng hoá không chứa một số lượng cố định tính hữu ích, hay “thoả dụng”. Tính hữu ích nằm trong tâm trí người sử dụng: Thoả dụng và giá trị là những giá trị chủ quan. 

Nhưng hàng hoá thì có hạn, cũng như thời gian và các nguồn lực khác của chúng ta. Chúng ta phải lựa chọn và cân nhắc ảnh hưởng của những lựa chọn đó. Để theo đuổi một đường lối hành động, chúng ta phải từ bỏ một số thứ nào đó. Và chúng ta gọi cái mà mình từ bỏ là chi phí. Đấy không hẳn là chi phí tài chính – đấy có thể chỉ là thời gian và công sức mà chúng ta bỏ ra để giành được một mục tiêu nào đó, hay bỏ qua những khả năng thay thế khác (đấy là cái mà các nhà kinh tế học gọi là chi phí cơ hội). Nhưng những chi phí này cũng là chủ quan. Điều chúng ta cân nhắc là giá trị của cái mà chúng ta thu được so với giá trị của cái mà chúng ta phải hi sinh. Đó là quyết định mang tính cá nhân: Người khác có thể có lựa chọn hoàn toàn ngược lại. Vì vậy, các nhà kinh tế học phải nhớ (Trường phái kinh tế học Áo nói) rằng tất cả các quyết định kinh tế – từ đầu tư vào sản xuất đến buôn bán và tiêu dùng – bản chất là chủ quan và phụ thuộc vào những giá trị mà các cá nhân có liên quan coi trọng. 

Thứ tư, giá cả giúp chúng ta tối đa hóa giá trị và giảm chi phí. Nguyên nhân là do món hàng mà người ta đem ra trao đổi trên thị trường được những người khác nhau đánh giá khác nhau. Mỗi người đều đánh giá cái mà người kia có cao hơn cái mà họ phải từ bỏ để có được món hàng của người kia. Chúng ta không được rơi vào bẫy khi giả định rằng bởi vì đôi giày (ví dụ thế) được bán với một số tiền cụ thể thì giá của đôi giày là giá trị nó. Giá trị mang tính cá nhân. Người bán giày cho rằng số tiền đó có giá trị hơn đôi giày, nhưng người mua lại cho rằng đôi giày đó có giá trị hơn khoản tiền mà mình vừa đưa cho người kia. 

Tuy nhiên, dù cuối cùng có là giá nào đi nữa thì đấy cũng là số hàng hóa (đôi giày) mà trên thương trường người ta sẵn sàng từ bỏ để nhận lại một thứ khác (tiền mặt). Giá là tỉ lệ trao đổi giữa các món hàng hoá khác nhau. Và giá cả đưa ra tín hiệu quan trọng cho những người tham gia trên thương trường. Nếu giá của một món hàng nào đó tăng – vì bất cứ lí do gì – thì nó cũng đều nhắc nhở người mua sử dụng ít đi và chuyển những khoản chi tiêu của họ sang những thứ được họ đánh giá cao hơn; và nó nhắc nhở người bán sản xuất nhiều hơn và thu được nhiều tiền hơn. Nhờ sự kiện là hệ thống giá cả phát ra thông tin quan trọng này mà cả người mua lẫn người bán đều tự động điều chỉnh lựa chọn của mình cho phù hợp với thực tế mới, và hoạt động của hàng triệu người được phối hợp ăn ý với nhau. 

Thứ năm, cạnh tranh là quá trình khám phá. Thị trường là không hoàn hảo. Thật vậy, chính sự không hoàn hảo lại dẫn dắt thị trường. Những cái không hoàn hảo có tác dụng là vì người ta tìm kiếm những cơ hội mới trên thương trường để trao đổi nhằm làm cho nhau đều được lợi. Có lẽ họ nhìn thấy cách làm một món hàng cụ thể nào đó rẻ hơn hay thị trường ngách  chưa có người cung cấp. Lấp đầy những khoảng trống này tạo điều kiện cho họ làm ra lợi nhuận, họ đưa nguồn lực đến những nơi có nhu cầu cao nhất và chuyển chúng ra khỏi những nơi chúng bị đánh giá thấp hơn. Và sức quyến rũ của lợi nhuận khuyến khích mọi người sẵn sàng hành động khi có cơ hội và sáng tạo để nắm bắt cơ hội – nghĩa là hành động như các doanh nhân. 

Nhu cầu mà doanh nhân đáp ứng càng lớn thì lợi nhuận mà họ có thể hi vọng cũng càng lớn – cho đến khi đối thủ cạnh tranh của họ làm theo. Cho nên thường xuyên có áp lực phát triển các sản phẩm và quy trình mới tốt hơn. Cạnh tranh là quá trình khám phá liên tục của doanh nhân, nhờ đó tất cả chúng ta đều được lợi, đấy là khi những biện pháp nhằm đáp ứng nhu cầu của chúng ta một cách tốt hơn và rẻ hơn được phát hiện. 

Thứ sáu, sở hữu tư nhân là cực kì cần thiết. Những người theo mô hình xã hội chủ nghĩa tin rằng chúng ta có thể làm mà không cần sức quyến rũ của lợi nhuận bằng cách biến tài sản thành sở hữu tập thể. Rõ ràng là, không thể áp dụng quan niệm đó cho hàng tiêu dùng, ví dụ, giày dép hay kính, tức là những thứ không thể dùng chung được. Do đó họ tập trung vào sở hữu tập thể các phương tiện sản xuất. Nhưng nếu các nhà máy và máy móc không bao giờ được mua bán thì chúng là những thứ không có giá. Và ở đâu không có giá thì ở đó cũng không có thị trường mà nó có thể giúp chúng ta tìm ra cái gì là khan hiếm và hướng các nguồn tài nguyên tới những chỗ còn để trống. Kết quả là các nhà lập kế hoạch trong các chế độ toàn trị có thể không bao giờ biết liệu các phương tiện sản xuất có làm ra giá trị hay là bị lãng phí. 

Nền kinh tế rộng lớn hơn 

Thứ bảy, sản xuất là hành động cân bằng đầy khó khăn. Vì không có giá cả, những người xã hội chủ nghĩa có thể không đưa ra được quyết định về sản xuất, nhưng đối với các chủ sở hữu tư nhân đấy cũng không phải là việc dễ. Mục đích duy nhất của sản xuất là làm ra hàng hoá mà chúng ta tiêu dùng. Nhưng tất cả các quá trình sản xuất đều đòi hỏi thời gian và có thể cần những bước trung gian phức tạp được kết hợp lại với nhau theo đúng hướng. Bất kì lúc nào hay chỗ nào trong quy trình phức tạp này cũng có thể xảy ra thay đổi về giá cả (ví dụ, giá điện hay tiền lương tăng) hay thay đổi về cầu (ví dụ, đối thủ cạnh tranh sản xuất mặt hàng tốt hơn), thì cũng có thể làm cho sản xuất đi chệch hướng. 

Nếu tư liệu sản xuất được sử dụng trong sản xuất có thể được tái sử dụng cho mục đích nào khác thì doanh nhân có thể phục hồi được. Nhưng nhiều loại tư liệu sản xuất (ví dụ, nhà máy sản xuất thép hay máy in báo) chỉ dùng cho một mục đích cụ thể. Lúc đó, sản xuất là một hoạt động kinh doanh đầy mạo hiểm và có nguy cơ mất mát thật sự. 

Thứ tám, lạm phát là rất tai hại. Nguy cơ mất mát lan tràn khi chính phủ thực hiện chính sách tài chính sai lầm. Đối với Trường phái kinh tế học Áo, tiền cũng là hàng hóa như bất kì món hàng hóa nào khác: Nó có nguồn cung (thường do các cơ quan của chính phủ xác định) và cầu (người ta đánh giá nó như là một phương tiện thuận tiện để trao đổi). Nếu chính phủ tăng nguồn cung thì giá trị của nó giảm. Người bán đòi nhiều tiền hơn thì họ mới bán – vì vậy, giá cả tính bằng tiền gia tăng. Đây là lạm phát. 

Lạm phát là tin tốt cho các con nợ, những người này trả nợ bằng số tiền không còn giá trị như trước và tin xấu cho những người tiết kiệm. Lạm phát làm cho thị trường cho vay và các quá trình sản xuất phụ thuộc vào thị trường này bị mất cân bằng. Nhưng tình hình còn tồi tệ hơn, giá cả trong giai đoạn lạm phát không tăng ngay lập tức và không tăng đồng đều. Giá tăng trước hết ở những nơi mà những món tiền mới được in thêm này được tung vào (ví dụ, doanh nghiệp nhà nước) rồi sau đó lan dần sang các lĩnh vực khác, như giọt mật tràn trên mặt bàn vậy. Vì thế, nguồn lực ban đầu được đưa vào một khu vực, rồi sau đó được đưa vào khu vực khác, tạo ra vụ bùng nổ tạm thời. Nhưng khi tiền đã lan sang tất cả các khu vực thì bùng nổ bắt đầu xẹp dần, các doanh nghiệp thấy rằng các khoản đầu tư của họ bị lãng phí, và kết quả là sẽ có một vụ sụp đổ lan tràn và không thể nào tránh khỏi được. 

Xã hội và chính phủ 

Thứ chín, hành động gây ra những hậu quả không lường trước được – cả tốt lẫn xấu. Về mặt tốt, không phải lúc nào cũng cần lập kế hoạch hay thiết kế một cách có ý thức thì con người mới tạo ra một cái gì đó có giá trị. Thường thì họ làm một cách không chủ ý, như một sản phẩm phụ của hành động mà họ vừa thực hiện. Những người đi từ làng nọ sang làng kia chỉ nghĩ đến việc tìm con đường dễ nhất, nhưng dần dần họ đã tạo ra con đường mòn hữu ích cho tất cả mọi người. Người mua và người bán chỉ nghĩ đến việc tìm kiếm giá trị cho chính mình, nhưng hàng triệu vụ trao đổi như thế lại tạo ra hệ thống giá cả, giúp đưa sức lực và nguồn tài nguyên đến những nơi mà chúng được sử dụng với giá trị cao nhất. Tiền xuất hiện đơn giản là vì mọi người đều muốn có một phương tiện trao đổi được chấp nhận. Do nhu cầu giao tiếp mà ngôn ngữ phát triển. Và thông luật phát triển khi người ta giải quyết những bất đồng, hết vụ nọ đến vụ kia. 

Đạo lí ở đây là chúng ta không nên coi các thiết chế là không có cơ cấu rõ ràng và thiếu hiệu quả chỉ vì các thiết chế này không được thiết kế và lập kế hoạch một cách có chủ ý. Về mặt xấu, nỗ lực của chúng ta nhằm “cải thiện” các thiết chế xã hội – ví dụ như nền kinh tế thị trường tự do – thường làm mất cân bằng những cơ chế phức tạp đã giúp cho thị trường hoạt động và dẫn tới những hậu quả thảm khốc mà chúng ta không hề muốn. 

Mười, sự can thiệp của chính phủ hầu như bao giờ cũng xấu. Các cá nhân chỉ có khả năng rất giới hạn trong việc làm nhiễu loạn tình trạng thăng bằng của các thiết chế xã hội phức tạp của chúng ta, nhưng sức mạnh khổng lồ và tập trung của chính phủ thì có thể làm việc này một cách dễ dàng. Ví dụ, các ngân hàng trung ương muốn giữ lãi suất thấp, nhằm khuyến khích các doanh nhân vay và thúc đẩy sản xuất. Nhưng khi vụ bùng nổ lan từ ngành này tới ngành khác rồi sau đó xẹp dần thì các nguồn lực sản xuất bị lãng phí và người dân trở nên nghèo hơn. 

Chính phủ có thể ủng hộ luật lương tối thiểu nhằm giúp đỡ những công nhân nghèo, nhưng người tuyển dụng lại cho rằng một số công nhân không xứng đáng được trả số tiền như thế, vì vậy, thất nghiệp gia tăng. Tương tự, kiểm soát tiền thuê nhà có thể được áp dụng nhằm giúp người nghèo, làm như thế không chỉ khuyến khích các chủ sở hữu không cho thuê nữa mà còn giúp sử dụng vào những việc khác có lợi hơn. Các nhà quản lí có thể áp đặt những tiêu chuẩn mới, cứng rắn hơn nhằm bảo vệ người dân, nhưng các chi phí phát sinh làm cho những người mới khó thâm nhập thị trường, cạnh tranh giảm đi và người dân rơi vào hoàn cảnh tệ hại hơn. 

Hành động của chính phủ còn thường bị đặt sai chỗ theo một khía cạnh quan trọng khác. Các quan chức không thể nào biết được, trên thực tế, các cá nhân đánh giá cao cái gì. Ví dụ, họ không thể nhìn thấu được tim gan của chúng ta và không thể biết liệu chúng ta có sẵn sàng đóng thêm thuế để có những trường học hay bệnh viện tốt hơn hay không. Giá thị trường có thể nói cho họ biết người dân sẵn sàng từ bỏ cái gì để được những thứ đó, nhưng lờ đi giá cả và tìm cách “cải thiện” thị trường thì chắc chắn là họ sẽ không thể tối đa hóa được những giá trị mà chúng ta coi trọng. Trên thương trường đầy sức sống, nơi mọi người thường xuyên điều chỉnh kế hoạch của mình trước những điều kiện đang thay đổi, các quan chức thậm chí không thể thu thập được các thông tin cần thiết trước khi chúng trở nên lỗi thời, và như thế có thể chắc chắn rằng họ không bao giờ biết người dân sẽ chọn cái gì. Có lẽ chính phủ có vai trò trong việc đảm bảo rằng thị trường hoạt động trôi chảy; nhưng, theo các nhà kinh tế học Trường phái Áo, chính phủ chẳng có việc gì để can thiệp hết.