Tác giả: Henry Hazlitt
Sự “khuyến khích” của chính phủ đối với doanh nghiệp đôi khi cũng đáng sợ không kém gì sự thù địch của chính phủ. Điều được cho là sự khuyến khích này thường xuất hiện dưới dạng cấp tín dụng trực tiếp từ chính phủ, hoặc bảo lãnh cho các khoản vay tư nhân.
Vấn đề tín dụng của chính phủ thường phức tạp vì nó liên quan đến khả năng lạm phát. Chúng ta sẽ hoãn việc phân tích các tác động của lạm phát ở nhiều dạng khác nhau cho đến chương sau. Trong chương này, để đơn giản, chúng ta sẽ giả định rằng loại tín dụng đang được bàn đến là không gây ra lạm phát. Lạm phát, như chúng ta sẽ thấy sau, mặc dù làm phức tạp việc phân tích, nhưng về cơ bản không làm thay đổi hệ quả của các chính sách được thảo luận.
Đề xuất thường gặp nhất theo kiểu này tại Quốc hội là tăng tín dụng cho nông dân. Theo quan điểm của hầu hết các Nghị sĩ Quốc hội, nông dân dường như không bao giờ có đủ tín dụng. Tín dụng do các công ty thế chấp tư nhân, công ty bảo hiểm hay ngân hàng địa phương cung cấp không bao giờ là “đủ.” Quốc hội luôn tìm ra những khoảng trống mới chưa được lấp đầy bởi các tổ chức cho vay hiện tại, bất kể việc chính họ đã thành lập bao nhiêu tổ chức như vậy. Nông dân có thể đã có đủ tín dụng dài hạn, hoặc đủ tín dụng ngắn hạn, nhưng rồi người ta lại phát hiện họ thiếu tín dụng “trung hạn”; hoặc lãi suất quá cao; hoặc có lời phàn nàn rằng các khoản vay tư nhân chỉ dành cho những nông dân giàu có và có uy tín. Thế là các tổ chức cho vay mới và các loại hình cho vay vốn mới trong lĩnh vực nông nghiệp được chồng chất lên nhau bởi giới lập pháp.
Niềm tin vào tất cả những chính sách này, như ta sẽ thấy, bắt nguồn từ hai hành động thiển cận. Một là chỉ xem xét vấn đề từ góc độ của những nông dân đi vay. Hai là chỉ nghĩ đến nửa đầu của giao dịch.
Bây giờ, tất cả các khoản vay, trong mắt của những người vay trung thực, cuối cùng đều phải được hoàn trả. Tất cả tín dụng đều là nợ. Do đó, những đề xuất nhằm gia tăng khối lượng tín dụng thực chất chỉ là một tên gọi khác của các đề xuất gia tăng gánh nặng nợ nần. Chúng sẽ có vẻ kém hấp dẫn hơn đáng kể nếu chúng thường được gọi bằng cái tên thứ hai thay vì cái tên thứ nhất.
Chúng ta không cần bàn đến ở đây những khoản vay thông thường mà nông dân nhận được từ các nguồn tư nhân. Chúng bao gồm các khoản thế chấp; các khoản tín dụng trả góp để mua xe hơi, tủ lạnh, radio, máy kéo và các máy móc nông nghiệp khác, và các khoản vay ngân hàng được thực hiện để hỗ trợ người nông dân cho đến khi họ có thể thu hoạch, đưa nông sản ra thị trường và được trả tiền. Ở đây, chúng ta chỉ cần quan tâm đến những khoản vay cho nông dân được cấp trực tiếp bởi một số cơ quan chính phủ hoặc được chính phủ bảo lãnh.
Những khoản vay này chủ yếu thuộc hai loại. Một là khoản vay cho phép nông dân giữ lại sản phẩm của mình, không bán ra thị trường. Đây là loại đặc biệt có hại, nhưng sẽ thuận tiện hơn nếu bàn đến nó sau, khi chúng ta nói đến vấn đề kiểm soát hàng hóa của chính phủ. Loại còn lại là khoản vay để cung cấp vốn—thường là để giúp nông dân khởi sự kinh doanh bằng cách cho phép họ mua trang trại, một con la hay một chiếc máy kéo, hoặc cả ba.
Thoạt nhìn, lý lẽ ủng hộ loại vay này có vẻ rất thuyết phục. Người ta sẽ nói rằng: đây là một gia đình nghèo, không có phương tiện sinh kế. Thật tàn nhẫn và lãng phí nếu đưa họ vào diện trợ cấp. Hãy mua cho họ một trang trại; giúp họ lập nghiệp; biến họ thành những công dân có ích và tự trọng; hãy để họ đóng góp vào tổng sản phẩm quốc gia và trả nợ bằng những gì họ sản xuất ra. Hoặc, đây là một người nông dân đang vật lộn với các phương thức sản xuất thô sơ vì anh ta không có vốn để mua máy kéo. Hãy cho anh ta vay tiền để mua một cái; để anh ta tăng năng suất; anh ta có thể trả nợ bằng số tiền thu được từ vụ mùa bội thu của mình. Theo cách đó, bạn không chỉ làm giàu cho anh ta và giúp anh ta tự đứng vững; bạn còn làm giàu cho cả cộng đồng bằng sản lượng tăng thêm đó. Và kết luận cho lập luận đó là khoản vay này không gây tốn kém gì cho chính phủ và người nộp thuế, bởi vì nó “tự thanh lý”.
Thực tế thì đây là những gì xảy ra hàng ngày theo thể chế tín dụng tư nhân. Nếu một người muốn mua một trang trại và chỉ có, chẳng hạn, một nửa hoặc một phần ba số tiền cần thiết, thì một người hàng xóm hoặc một ngân hàng tiết kiệm sẽ cho anh ta vay phần còn lại dưới hình thức thế chấp trên chính trang trại đó. Nếu anh ta muốn mua một chiếc máy kéo, thì chính công ty máy kéo hoặc một công ty tài chính sẽ cho phép anh ta mua nó với một phần ba giá mua và số tiền còn lại sẽ được trả góp từ thu nhập mà chính chiếc máy kéo đó giúp tạo ra.
Tuy nhiên, có một sự khác biệt mang tính quyết định giữa các khoản vay do các tổ chức cho vay tư nhân cung cấp và các khoản vay do cơ quan chính phủ cung cấp. Mỗi tổ chức cho vay tư nhân đều mạo hiểm với tiền của chính mình. (Đúng là một chủ ngân hàng mạo hiểm với tiền của những người khác đã được ủy thác cho mình; nhưng nếu số tiền đó bị mất thì anh ta phải bù vào bằng tiền của chính mình hoặc bị buộc phải phá sản.) Khi con người mạo hiểm với tiền của chính họ, họ thường rất thận trọng trong quá trình điều tra để xác định độ đảm bảo của tài sản thế chấp cũng như năng lực kinh doanh và mức độ trung thực của người đi vay.
Nếu chính phủ hoạt động theo cùng những tiêu chuẩn nghiêm ngặt như vậy thì sẽ không có lý do chính đáng nào để chính phủ tham gia vào lĩnh vực này. Tại sao lại làm chính xác những gì mà các tổ chức tư nhân đã làm? Nhưng chính phủ hầu như luôn hoạt động theo những tiêu chuẩn khác. Trên thực tế, toàn bộ lý lẽ cho việc chính phủ tham gia vào lĩnh vực cho vay là chính phủ sẽ cấp vốn cho những người không thể vay được từ các tổ chức cho vay tư nhân. Đây chỉ là một cách nói khác rằng các cơ quan cho vay của chính phủ sẽ chấp nhận mạo hiểm với tiền của người khác (người nộp thuế) mà các tổ chức cho vay tư nhân không bao giờ làm với tiền của chính họ. Thực tế, đôi khi những người biện hộ sẽ thoải mái thừa nhận rằng tỷ lệ tổn thất đối với các khoản vay của chính phủ sẽ cao hơn so với các khoản vay tư nhân. Nhưng họ cho rằng điều này sẽ được bù đắp nhiều hơn nhờ vào sản lượng gia tăng được tạo ra bởi những người vay trả nợ, và thậm chí là bởi phần lớn những người vay không trả nợ.
Lập luận này chỉ có vẻ hợp lý chừng nào chúng ta còn tập trung sự chú ý vào những người đi vay cụ thể được chính phủ cấp vốn và bỏ qua những người bị tước mất vốn do chính sách đó. Bởi vì thứ thực sự được cho vay không phải là tiền, vốn chỉ là phương tiện trao đổi, mà là tư bản. (Tôi đã lưu ý với bạn đọc rằng chúng ta sẽ hoãn việc bàn đến những phức tạp do việc mở rộng tín dụng mang tính lạm phát đến một thời điểm sau.) Thứ thực sự được cho vay, chẳng hạn, là trang trại hay chính chiếc máy kéo. Giờ đây, số lượng trang trại hiện có là hữu hạn, và sản lượng máy kéo cũng vậy (đặc biệt nếu giả sử rằng một lượng thặng dư máy kéo về mặt kinh tế không được tạo ra bằng cách hy sinh việc sản xuất các mặt hàng khác). Trang trại hoặc máy kéo được cho A vay thì không thể cùng lúc được cho B vay. Do đó, câu hỏi thực sự là liệu A hay B sẽ có được trang trại.
Điều này đưa chúng ta đến với những giá trị tương ứng của A và B, và những gì mỗi người đóng góp, hoặc có khả năng đóng góp, cho sản xuất. Giả sử A là người sẽ có được trang trại nếu chính phủ không can thiệp. Người chủ ngân hàng địa phương hoặc hàng xóm của anh ta biết anh ta và biết lý lịch của anh ta. Họ muốn tìm nơi sinh lời cho số tiền của họ. Họ biết anh ta là một nông dân giỏi và là một người trung thực, giữ lời hứa. Họ đánh giá anh ta là một khoản đầu tư đáng tin cậy. Có lẽ, nhờ vào sự chăm chỉ, tiết kiệm và tầm nhìn xa, anh ta đã tích lũy đủ tiền mặt để trả một phần tư giá của trang trại. Họ cho anh ta vay ba phần tư còn lại; và anh ta có được trang trại.
Có một ý tưởng lạ lùng đang lan truyền, được tin tưởng bởi tất cả những kẻ cực đoan về tiền tệ, rằng tín dụng là thứ mà chủ ngân hàng trao cho ai đó. Nhưng ngược lại, tín dụng là thứ mà một người đã có sẵn. Anh ta có nó, có lẽ là vì anh ta đã sở hữu những tài sản có thể bán được với giá trị tiền mặt lớn hơn khoản vay mà anh ta đang xin. Hoặc anh ta có nó nhờ vào nhân cách và lý lịch trong quá khứ đã tạo dựng được uy tín. Anh ta mang theo uy tín đó khi bước vào ngân hàng. Đó là lý do tại sao chủ ngân hàng cho anh ta vay. Chủ ngân hàng không cho không ai thứ gì. Họ cảm thấy chắc chắn sẽ được trả nợ. Họ chỉ đang trao đổi một dạng tài sản hoặc tín dụng có tính thanh khoản cao hơn để lấy một dạng có tính thanh khoản thấp hơn. Đôi khi họ mắc sai lầm, và khi đó không chỉ chủ ngân hàng chịu thiệt mà là cả cộng đồng; bởi vì những giá trị lẽ ra phải được tạo bởi người cho vay đã không được tạo ra và các nguồn lực bị lãng phí.
Giờ đây, hãy nói đến A, người có tín dụng, mà chủ ngân hàng sẽ cho vay. Nhưng chính phủ tham gia vào hoạt động cho vay với một tâm thế từ thiện, bởi vì như chúng ta đã thấy, họ lo lắng cho B. B không thể thế chấp hoặc vay các khoản vay khác từ các tổ chức cho vay tư nhân vì anh ta không có tín dụng với họ. Anh ta không có tiền tiết kiệm; anh ta không có lý lịch ấn tượng về việc là một nông dân giỏi; có lẽ hiện tại anh ta đang sống nhờ trợ cấp. Những người ủng hộ tín dụng của chính phủ sẽ nói, tại sao không biến anh ta trở thành một thành viên hữu ích và có năng suất của xã hội bằng cách cho anh ta vay đủ tiền để mua một trang trại, một con la hoặc máy kéo, rồi giúp anh ta lập nghiệp?
Có lẽ trong một trường hợp cá nhân, mọi việc có thể diễn ra suôn sẻ. Nhưng rõ ràng là, nhìn chung, những người được chọn theo các tiêu chuẩn này của chính phủ sẽ là những khoản đầu tư có rủi ro cao hơn so với những người được chọn theo các tiêu chuẩn tư nhân. Sẽ mất nhiều tiền hơn khi cho họ vay. Tỷ lệ thất bại trong số họ sẽ cao hơn nhiều. Họ sẽ kém hiệu quả hơn. Nhiều nguồn lực sẽ bị họ lãng phí hơn. Thế nhưng, những người nhận tín dụng của chính phủ sẽ có được trang trại và máy kéo của họ với cái giá phải trả là tước đi cơ hội của những người đáng lẽ đã được nhận tín dụng tư nhân. Vì B có một trang trại, A sẽ bị tước mất một trang trại. A có thể bị gạt ra ngoài vì lãi suất đã tăng do các hoạt động của chính phủ, hoặc vì giá trang trại đã tăng do tác động của các hoạt động đó, hoặc vì trong khu vực của anh ta không còn trang trại nào khác để mua. Trong mọi trường hợp, kết quả chung cuộc của tín dụng chính phủ không phải là làm tăng lượng của cải do cộng đồng tạo ra mà là làm giảm nó, bởi vì lượng vốn thực sẵn có (bao gồm trang trại, máy kéo, v.v.) đã được trao vào tay những người đi vay kém hiệu quả hơn thay vì những người đáng tin cậy và hiệu quả hơn.
2
Vấn đề còn trở nên rõ ràng hơn nữa nếu chúng ta chuyển từ nông nghiệp sang các hình thức kinh doanh khác. Người ta thường đưa ra đề xuất rằng chính phủ nên chịu những rủi ro “quá lớn đối với khu vực tư nhân.” Điều này có nghĩa là các quan chức nhà nước nên được phép mạo hiểm với tiền của người nộp thuế, trong khi không ai dám làm điều đó với tiền của chính mình.
Một chính sách như vậy sẽ dẫn đến nhiều hậu quả tai hại khác nhau. Nó sẽ dẫn đến sự thiên vị: cấp khoản vay cho thân hữu hoặc để đổi lấy hối lộ. Nó tất yếu sẽ dẫn đến những vụ bê bối. Nó sẽ dẫn đến sự chỉ trích bất cứ khi nào tiền của người nộp thuế bị ném vào các doanh nghiệp thất bại. Nó sẽ làm tăng yêu sách đòi chủ nghĩa xã hội: bởi vì, người ta sẽ hỏi một cách chính đáng, nếu chính phủ chịu mọi rủi ro, thì tại sao chính phủ lại không được hưởng lợi nhuận? Thực tế, liệu có lý do chính đáng nào để yêu cầu người nộp thuế chịu rủi ro trong khi cho phép các nhà tư bản tư nhân giữ lại lợi nhuận? (Tuy nhiên, như chúng ta sẽ thấy sau, đây chính xác là những gì chúng ta đã làm trong trường hợp các khoản vay “không truy đòi” của chính phủ cho nông dân.)
Nhưng tạm thời hãy bỏ qua tất cả những hệ lụy đó và tập trung vào chỉ một hậu quả của những khoản vay kiểu này. Đó là chúng sẽ lãng phí vốn và làm giảm sản lượng. Chúng sẽ ném vốn khả dụng vào các dự án tồi hoặc ít nhất là đáng ngờ. Chúng sẽ trao vốn vào tay những người kém năng lực hoặc thiếu đáng tin hơn so với những người lẽ ra đã nhận được vốn. Bởi vì lượng vốn thực có tại bất kỳ thời điểm nào (khác với những tờ tiền được in ra từ máy in) là hữu hạn. Những gì được trao vào tay B thì không thể cùng lúc trao cho A.
Người ta muốn đầu tư vốn của chính mình. Nhưng họ thận trọng. Họ muốn thu hồi vốn. Do đó, hầu hết các bên cho vay đều điều tra cẩn thận bất kỳ đề xuất nào trước khi họ mạo hiểm tiền của chính mình vào đó. Họ cân nhắc triển vọng lợi nhuận so với khả năng thua lỗ. Đôi khi họ cũng mắc sai lầm. Nhưng vì một vài lý do, họ có khả năng mắc ít sai lầm hơn so với những người cho vay của chính phủ. Trước hết, tiền mà họ cho vay là của họ hoặc là tiền được người khác tự nguyện ủy thác cho họ. Trong trường hợp chính phủ cho vay, số tiền đó là của những người khác và số tiền đó đã bị lấy khỏi họ, bất kể họ có muốn hay không, dưới dạng thuế. Tiền của tư nhân sẽ chỉ được đầu tư khi chắc chắn được hoàn trả kèm lãi suất hoặc lợi nhuận. Đây là dấu hiệu cho thấy những người được cho vay tiền được kỳ vọng sẽ sản xuất ra những thứ mà thị trường thực sự mong muốn. Ngược lại, tiền của chính phủ có khả năng được cho vay nhằm phục vụ một mục đích chung mơ hồ nào đó như “tạo việc làm”, và công việc càng kém hiệu quả — tức là càng cần nhiều lao động hơn so với giá trị sản phẩm tạo ra — thì khoản đầu tư đó càng có khả năng được đánh giá cao.
Hơn nữa, những người cho vay tư nhân được lựa chọn thông qua một bài kiểm tra thị trường khắc nghiệt. Nếu họ mắc sai lầm nghiêm trọng, họ sẽ mất tiền và không còn tiền để cho vay nữa. Chỉ khi họ thành công trong quá khứ thì họ mới có nhiều tiền hơn để cho vay trong tương lai. Do đó, những người cho vay tư nhân (trừ một tỷ lệ tương đối nhỏ có được tiền thông qua thừa kế) đều được chọn lọc nghiêm ngặt qua một quá trình chọn lọc tự nhiên — kẻ mạnh thì sống sót. Ngược lại, những người cho vay của chính phủ hoặc là những người đã vượt qua các kỳ thi công chức, và biết cách trả lời các câu hỏi giả định một cách giả định, hoặc là những người có thể đưa ra những lý do hợp lý nhất để cho vay và những lời biện minh hợp lý nhất để giải thích vì sao các khoản vay thất bại lại không phải là lỗi của họ. Nhưng kết quả chung cuộc vẫn không thay đổi: các khoản vay tư nhân sẽ sử dụng các nguồn lực và vốn hiện có tốt hơn nhiều so với các khoản vay của chính phủ. Các khoản vay của chính phủ sẽ lãng phí nhiều vốn và nguồn lực hơn nhiều so với các khoản vay tư nhân. Tóm lại, so với các khoản vay tư nhân, các khoản vay của chính phủ sẽ làm giảm sản lượng chứ không làm tăng sản lượng.
Tóm gọn lại, đề xuất cho các khoản vay của chính phủ đối với các cá nhân hay dự án tư nhân chỉ nhìn thấy B và quên mất A. Nó chỉ thấy những người nắm giữ số vốn được cấp, mà quên mất những người lẽ ra đã nhận được số vốn đó. Nó chỉ thấy dự án được cấp vốn, mà quên mất những dự án bị rút vốn vì sự phân bổ đó. Nó chỉ nhìn thấy lợi ích trước mắt của một nhóm, mà bỏ qua tổn thất của những nhóm khác, và tổn thất ròng của toàn thể cộng đồng.
Đây là một minh họa nữa cho ngụy biện của việc chỉ thấy lợi ích đặc thù trong ngắn hạn mà quên đi lợi ích chung trong dài hạn.
3
Chúng ta đã lưu ý ngay đầu chương rằng “viện trợ” của chính phủ cho doanh nghiệp đôi khi cũng đáng sợ chẳng kém gì sự thù địch của chính phủ. Điều này áp dụng cho cả trợ cấp và các khoản vay của chính phủ. Chính phủ không bao giờ cho doanh nghiệp vay hoặc trao bất cứ thứ gì mà không lấy đi từ doanh nghiệp. Người ta thường nghe những người theo Chính sách kinh tế mới (New Dealers) và những người theo chủ nghĩa quốc gia khoe khoang về cách chính phủ đã “giải cứu doanh nghiệp” thông qua Tập đoàn Tài chính Tái thiết (RFC), Tập đoàn Cho vay Nhà ở (HOLC), và các cơ quan chính phủ khác vào năm 1932 và những năm sau đó. Nhưng chính phủ không thể hỗ trợ tài chính cho doanh nghiệp nếu trước tiên hoặc sau cùng không lấy tiền từ doanh nghiệp. Tất cả tiền của chính phủ đều đến từ thuế. Ngay cả thứ được ca ngợi là “tín dụng của chính phủ” cũng dựa trên giả định rằng các khoản vay ấy cuối cùng sẽ được trả bằng tiền thuế. Khi chính phủ cho vay hoặc trợ cấp cho doanh nghiệp, điều nó thực sự làm là đánh thuế lên các doanh nghiệp tư nhân thành công để hỗ trợ cho các doanh nghiệp tư nhân không thành công. Trong một số trường hợp khẩn cấp, có thể có một lập luận hợp lý cho điều này, mà chúng ta không cần phân tích sâu ở đây. Nhưng về lâu dài, điều đó không có vẻ là một phương án mang lại lợi ích cho đất nước nói chung. Và thực tiễn đã cho thấy đúng là như vậy.
Nguồn: Henry Hazlitt, “Economics in One Lesson”, Mises Institute.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.