Tác giả: Lawrence J. Haas.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.
Chính quyền Trump có lẽ kỳ vọng quá nhiều khi họ cho rằng châu Âu có thể thực hiện một thoả thuận hoà bình cho Ukraine mà không cần có họ tham gia.
Lo lắng trước quyết định của Tổng thống Trump khi không mời Châu Âu tham gia vào bàn đàm phán khi đội ngũ của ông thảo luận về thỏa thuận hòa bình giữa Nga và Ukraine với các quan chức cấp cao của Nga, Tổng thống Pháp Emmanuel Macron đã triệu tập một cuộc họp tại Paris vào thứ Hai tuần trước với các nhà lãnh đạo Anh, Đức và các lãnh đạo Châu Âu khác để quyết định cách phản ứng.
Tuy nhiên, khi các nhà lãnh đạo Châu Âu trò chuyện tại Cung điện Élysée, những rạn nứt vốn tồn tại trong Châu Âu mỗi khi tìm kiếm một mặt trận thống nhất về các vấn đề quân sự, ngoại giao hoặc kinh tế đã trở nên rõ ràng. Một mặt, Thủ tướng Anh Keir Starmer cho biết ông sẽ xem xét việc cử quân đội đến Ukraine để đảm bảo an ninh cho nước này sau thỏa thuận hòa bình. Mặt khác, Thủ tướng Đức Olaf Scholz gọi ý tưởng này là ‘vội vàng’ và ‘hoàn toàn không thích hợp.’ Các quan chức Ba Lan cũng bác bỏ ý tưởng về vai trò quân sự của Ba Lan tại Ukraine.
Sự khác biệt giữa các nhà lãnh đạo Châu Âu về một sự hiện diện quân sự chung tại Ukraine và các vấn đề rộng hơn liên quan đến những động thái ngoại giao của Trump đối với Nga làm nổi bật nguy cơ khi giả định rằng Châu Âu có đủ khả năng chính trị để, như Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth đã kêu gọi gần đây, ‘lãnh đạo từ phía trước.’
Liệu Châu Âu có thể làm được không? Và điều gì xảy ra nếu Châu Âu không thể làm được?
Lời kêu gọi từ Mỹ về việc Châu Âu cần lãnh đạo nhiều hơn và giảm sự can thiệp của Mỹ tại châu lục này—và nguy cơ tê liệt của Châu Âu (khi các quốc gia thành viên gặp khó khăn với các đối tượng cử tri trong nước và các thách thức từ bên ngoài)—có thể khuyến khích sự hung hăng hơn từ Nga, làm mất ổn định Châu Âu và để lại Mỹ phải đối mặt với những kẻ thù mạnh mẽ hơn ở Moscow, Bắc Kinh và những nơi khác.
Các nhà lãnh đạo toàn cầu thường nói về Châu Âu giống như cách họ nói về Nga, Trung Quốc và các quốc gia khác. Tuy nhiên, cần nói một điều hiển nhiên, Châu Âu không phải là một quốc gia. Nó là một tập thể mà trong các vấn đề đa quốc gia nó làm việc thông qua các tổ chức đa phương, nổi bật nhất là NATO và Liên minh Châu Âu. Những tổ chức này yêu cầu sự đồng thuận trước khi hành động và, không ngạc nhiên, thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm sự đồng thuận đó.
Điều đã thúc đẩy sự đồng thuận và duy trì sự đoàn kết của Châu Âu, đặc biệt là trong những thời điểm khủng hoảng quốc tế quan trọng, chính là sự lãnh đạo của Mỹ. Điều này đúng từ những ngày đầu của kỷ nguyên hậu chiến và vẫn tiếp tục đúng cho đến ngày nay.
NATO, một sản phẩm của Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương năm 1949, không phải là liên minh quốc phòng châu Âu đầu tiên sau chiến tranh. Thay vào đó, NATO nối tiếp Hiệp ước Brussels, mà Anh, Pháp, Bỉ, Luxembourg và Hà Lan ký kết vào tháng 3 năm 1948. Điều đáng chú ý là, Châu Âu biết rằng hiệp ước này sẽ không ngăn cản Liên Xô xâm lược lục địa vì nó không bao gồm sự tham gia của Hoa Kỳ.
Trong những năm sau đó, dù là chính thức qua NATO hay không chính thức qua các liên minh phương Tây tạm thời, phương Tây đã không hành động mạnh mẽ trong các vấn đề quân sự khi thiếu sự lãnh đạo của Hoa Kỳ.
Ví dụ, chỉ đến khi Tổng thống Clinton quyết định hành động quyết đoán vào năm 1995 để chặn sự xâm lược của Serbia đối với Bosnia, NATO mới tiến hành chiến dịch ném bom, mở đường cho Hiệp định Dayton do Mỹ làm trung gian, mang lại hòa bình cho Bosnia vào cuối năm đó.
Để không ai nghi ngờ về tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Mỹ, hãy so sánh phản ứng của phương Tây trước cuộc xâm lược và sáp nhập Crimea của Vladimir Putin vào năm 2014 với phản ứng của phương Tây trước cuộc xâm lược Ukraine của ông vào năm 2022.
Với cuộc xâm lược trước, Tổng thống Obama quyết định không gửi vũ khí cho Kyiv, chỉ áp đặt các lệnh trừng phạt nhẹ đối với các cá nhân và tổ chức tư nhân của Nga, và hầu như tránh các nỗ lực ngoại giao để kết thúc chiến tranh. Mặc dù lo ngại về sự xâm lược lục địa của Putin, nhưng Châu Âu đã không đoàn kết để hành động mạnh mẽ hơn một cách độc lập. Cuối cùng, phương Tây đã chấp nhận việc Nga chiếm đóng Crimea (dù không chính thức).
Với cuộc xâm lược sau này, Tổng thống Biden quyết định phản đối mạnh mẽ cuộc xâm lược của Putin, xây dựng một liên minh rộng rãi các quốc gia phương Tây để phối hợp một chiến lược toàn diện, và làm việc chặt chẽ với các quốc gia này để cung cấp vũ khí ngày càng mạnh mẽ cho Kyiv và áp đặt các lệnh trừng phạt ngày càng nghiêm ngặt đối với Moscow. Chính nhờ những hành động do Mỹ lãnh đạo mà đến nay, Ukraine đã đánh bại nỗ lực xâm lược của Nga.
Hiện nay, Trump và đội ngũ của ông đang kêu gọi một thỏa thuận hòa bình Nga-Ukraine, chấp nhận Crimea là một phần của Nga, không cho Ukraine gia nhập NATO, và các bảo đảm an ninh cho Ukraine được hỗ trợ bởi quân đội của các quốc gia Châu Âu và ngoài Châu Âu—nhưng không phải quân đội Mỹ.
“Bảo vệ an ninh Châu Âu phải là ưu tiên hàng đầu của các thành viên Châu Âu trong NATO,” Hegseth tuyên bố, giải thích rằng an ninh của Châu Âu sẽ không phải là ưu tiên hàng đầu của Washington. “Là một phần trong đó, Châu Âu phải cung cấp phần lớn viện trợ chết người và không chết người cho Ukraine trong tương lai.”
Để đạt được điều này, Trump đang thúc giục các thành viên NATO tăng chi tiêu quốc phòng lên 5% GDP, mặc dù tiêu chuẩn của NATO là 2% và chính Washington chỉ chi khoảng 3%.
Liệu Châu Âu, vốn đang tự hành động một mình sau khi thoả thuận hoà bình đã không có sự tham gia của họ, có đủ mạnh mẽ để ngăn chặn Nga tiếp tục chiến tranh với Ukraine và tiến vào Đông Âu?
Xem xét mọi yếu tố, đây có vẻ là một canh bạc vô cùng rủi ro mà đội ngũ mới ở Washington đang phải đối mặt.
Lawrence J. Haas là một nghiên cứu viên cao cấp tại Hội đồng Chính sách Đối ngoại Mỹ và là tác giả của nhiều cuốn sách, trong đó có Harry and Arthur: Truman, Vandenberg, and the Partnership That Created the Free World.
Nguồn: Lawrence J. Haas, “Europe Can’t Do It Alone,” The National Interest, 23/2/2025.