Tác giả: Daron Acemoglu, James A. Robinson
Về mặt tăng trưởng kinh tế, trải nghiệm của Ba Lan và Ukraine trong những thập kỷ sau khi chế độ cộng sản sụp đổ là một bức tranh đối lập. Trong khi Ba Lan chấp nhận sức mạnh của xã hội dân sự rất dân chủ và trở nên giàu có hơn, Ukraine lại mắc kẹt trong các thể chế tham nhũng, tạo ra một nền văn hóa tham nhũng và phá hủy lòng tin của công chúng.
CAMBRIDGE – Trong khoảnh khắc hân hoan ngay sau khi Liên Xô sụp đổ, ít ai ngờ rằng Ukraine – một quốc gia công nghiệp hóa với lực lượng lao động được giáo dục và tài nguyên thiên nhiên phong phú – sẽ phải chịu đựng tình trạng trì trệ trong 28 năm tiếp theo. Trong khi đó, Ba Lan, vốn nghèo hơn Ukraine vào năm 1991, đã tăng trưởng gần như gấp ba lần GDP bình quân đầu người (theo sức mua tương đương) trong ba thập kỷ tiếp theo.
Hầu hết người Ukraine đều biết lý do tại sao họ tụt lại phía sau: đất nước của họ nằm trong số những quốc gia tham nhũng nhất thế giới. Nhưng tham nhũng không xuất hiện từ hư vô, vậy câu hỏi thực sự là nguyên nhân nào gây ra điều đó.
Giống như ở các nước cộng hòa Xô viết khác, quyền lực ở Ukraine từ rất lâu tập trung trong tay các tinh hoa của Đảng Cộng sản, thường được Kremlin bổ nhiệm. Tuy nhiên, Đảng Cộng sản Ukraine thực chất là một phiên bản từ Đảng Cộng sản Nga và thường hoạt động trên cơ sở tổn hại đến người Ukraine bản địa.
Hơn nữa, cũng như hầu hết các nước cộng hòa cũ của Xô viết (với ngoại lệ đáng chú ý là các quốc gia Baltic), quá trình chuyển đổi của Ukraine ra khỏi chủ nghĩa cộng sản do các tinh hoa cộng sản trước đây dẫn dắt, những người đã tự tái định hình thành các nhà lãnh đạo dân tộc. Điều này không mang lại kết quả tốt ở bất kỳ đâu. Tuy nhiên, trong trường hợp của Ukraine, tình hình đã trở nên tồi tệ hơn do cuộc đấu tranh quyền lực không ngừng giữa các tinh hoa cộng sản đối địch và các oligarch mà họ đã giúp tạo ra và phát triển.
Do sự thống trị của các phe phái đối kháng khác nhau, Ukraine đã bị chiếm giữ bởi những gì chúng ta gọi là các thể chế chiếm đoạt: các sắp xếp xã hội tại đây trao quyền cho một bộ phận nhỏ của xã hội và tước đoạt tiếng nói chính trị của phần còn lại. Bằng cách nghiêng lệch vĩnh viễn sân chơi kinh tế, những sắp xếp này từ lâu đã ngăn cản đầu tư và đổi mới cần thiết cho tăng trưởng bền vững.
Sẽ không thể hiểu được tình trạng tham nhũng nếu không xem xét đến bối cảnh thể chế rộng hơn này. Ngay cả khi tham nhũng và lợi dụng vị trí ở Ukraine được kiểm soát, các thể chế chiếm đoạt vẫn sẽ cản trở sự phát triển. Điều này đã xảy ra ở Cuba, chẳng hạn, nơi Fidel Castro lên nắm quyền và kiềm chế tham nhũng của chế độ trước đó, nhưng lại thiết lập một loại hệ thống chiếm đoạt khác. Giống như một loại nhiễm trùng thứ cấp, tham nhũng khuếch đại những bất cập do các thể chế chiếm đoạt tạo ra. Và loại nhiễm trùng này đặc biệt mạnh mẽ ở Ukraine, do sự mất niềm tin hoàn toàn vào các thể chế.
Các xã hội hiện đại phụ thuộc vào một mạng lưới phức tạp của các thể chế để giải quyết tranh chấp, điều tiết thị trường và phân bổ tài nguyên. Nếu không có niềm tin của công chúng, những thể chế này không thể thực hiện chức năng đúng đắn của mình. Khi công dân bình thường bắt đầu cho rằng thành công phụ thuộc vào mối quan hệ và hối lộ, giả định đó trở thành một tiên đề tự thành hiện thực. Thị trường trở nên gian lận, công lý trở nên giao dịch, và các chính trị gia bán mình cho người trả giá cao nhất. Theo thời gian, “văn hóa tham nhũng” sẽ thâm nhập vào xã hội. Ở Ukraine, ngay cả các trường đại học cũng bị ảnh hưởng: bằng cấp thường xuyên bị mua bán.
Mặc dù tham nhũng là một triệu chứng hơn là nguyên nhân của các vấn đề ở Ukraine, văn hóa tham nhũng cần phải được triệt bỏ trước khi các điều kiện khác có thể cải thiện. Người ta có thể cho rằng điều này chỉ cần một nhà nước mạnh mẽ, có khả năng loại bỏ các chính trị gia và doanh nhân tham nhũng. Thật không đơn giản như vậy. Như cuộc chiến chống tham nhũng của Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã chỉ ra, các hành động từ trên xuống thường trở thành cuộc săn lùng các đối thủ chính trị của chính phủ, thay vì một cuộc trấn áp hành vi sai trái nói chung. Không cần phải nói, việc áp dụng tiêu chuẩn kép không phải là cách hiệu quả để xây dựng niềm tin.
Thay vào đó, việc chống tham nhũng hiệu quả đòi hỏi sự tham gia mạnh mẽ của xã hội dân sự. Thành công phụ thuộc vào việc cải thiện tính minh bạch, đảm bảo độc lập cho ngành tư pháp và trao quyền cho công dân bình thường để loại bỏ các chính trị gia tham nhũng. Cuối cùng, điểm nổi bật trong quá trình chuyển đổi hậu cộng sản của Ba Lan không phải là lãnh đạo hiệu quả từ trên xuống hay việc đưa ra thị trường tự do. Đó chính là sự tham gia trực tiếp của xã hội Ba Lan trong việc xây dựng các thể chế hậu cộng sản từ nền tảng.
Chắc chắn rằng, nhiều nhà kinh tế phương Tây đã đến Warsaw sau khi bức tường Berlin sụp đổ và ủng hộ việc tự do hóa thị trường từ trên xuống. Nhưng những đợt “liệu pháp sốc” đầu tiên của phương Tây đã dẫn đến tình trạng phá sản và sa thải hàng loạt, đồng thời tạo ra những chống đối rộng rãi trong xã hội được lãnh đạo bởi các công đoàn. Người Ba Lan đã đổ ra đường, và số lượng đình công tăng vọt – từ khoảng 215 cuộc đình công vào năm 1990 lên hơn 6,000 vào năm 1992 và hơn 7,000 vào năm 1993.
Bất chấp các chuyên gia phương Tây, chính phủ Ba Lan đã lùi bước trong các chính sách từ trên xuống, và thay vào đó tập trung vào việc xây dựng một sự đồng thuận chính trị xung quanh một tầm nhìn chung về cải cách. Các công đoàn đã được mời tham gia, nhiều nguồn lực hơn được phân bổ cho khu vực nhà nước, và một loại thuế thu nhập tiến bộ mới được giới thiệu. Chính những phản ứng này từ chính phủ đã khôi phục niềm tin vào các thể chế hậu cộng sản. Qua thời gian, chính những thể chế này đã ngăn chặn các nhà tài phiệt và những tinh hoa cộng sản cũ chiếm đoạt quá trình chuyển đổi, ngăn chặn sự lan tràn và bình thường hóa tham nhũng.
Ngược lại, Ukraine (cũng như Nga) đã nhận được đầy đủ liệu pháp tư nhân hoá và cải cách thị trường từ trên xuống. Không có ngay cả một sự giả bộ nào để trao quyền cho xã hội dân sự, quá trình chuyển đổi, một cách dự đoán được, đã bị các nhà tài phiệt và tàn dư của KGB chiếm đoạt.
Liệu một cuộc vận động toàn xã hội còn khả thi trong một quốc gia đã chịu đựng dưới sự lãnh đạo tham nhũng và các thể chế chiếm đoạt trong thời gian dài như Ukraine không? Câu trả lời ngắn gọn là có. Ukraine có một dân số trẻ, có tính chính trị cao, như chúng ta đã thấy trong Cách mạng Cam năm 2004-2005 và Cách mạng Maidan năm 2014. Quan trọng không kém, người dân Ukraine hiểu rằng tham nhũng phải được triệt bỏ để xây dựng các thể chế tốt hơn. Tổng thống mới của họ, Volodymyr Zelensky, đã vận động với lời hứa chống tham nhũng và đã được bầu với số phiếu áp đảo. Ông hiện phải khởi động quá trình dọn dẹp.
Những nỗ lực của Tổng thống Mỹ Donald Trump trong việc liên kết Ukraine với các giao dịch tham nhũng đã tạo cho Zelensky một cơ hội hoàn hảo để có một cử chỉ biểu tượng. Ông nên từ chối công khai việc hợp tác với người Mỹ cho đến khi họ giải quyết vấn đề tham nhũng của chính họ (ngay cả khi điều đó có nghĩa là từ chối sự hỗ trợ bị ô uế).
Cuối cùng, Hoa Kỳ hiện là một trong những quốc gia cuối cùng nên lên lớp Ukraine về tham nhũng. Để có thể đóng vai trò đó một lần nữa, các tòa án và cử tri của Mỹ sẽ phải làm rõ những hành vi sai trái của chính quyền Trump, những cuộc tấn công vào các thể chế dân chủ, và các vi phạm niềm tin của công chúng sẽ không được chấp nhận. Chỉ khi đó, Mỹ mới trở thành một hình mẫu đáng để học hỏi.
Daron Acemoglu & James A. Robinson, “How to Stem Ukraine’s Corruption“, Project Syndicate, 14/10/2019.