Chương 6. Cách các quốc gia liên hệ với nhau
Tác giả: Murray N. Rothbard.
Vì diện tích lãnh thổ của trái đất được phân chia giữa các quốc gia, các mối quan hệ giữa các quốc gia sẽ chiếm phần lớn thời gian và năng lượng của mỗi quốc gia. Xu hướng tự nhiên của mỗi quốc gia là mở rộng quyền lực, và sự mở rộng này ở phạm vi quốc tế thường diễn ra qua việc chinh phục lãnh thổ. Trừ khi một lãnh thổ là vô chủ hoặc không có người ở, bất kỳ sự mở rộng nào cũng sẽ dẫn đến xung đột lợi ích giữa các nhóm cai trị của các quốc gia khác nhau. Chỉ có một nhóm cai trị có thể nắm độc quyền cưỡng chế đối với một khu vực lãnh thổ vào bất kỳ thời điểm nào: quyền kiểm soát tuyệt đối của quốc gia X đối với một lãnh thổ chỉ có thể đạt được thông qua việc đẩy quốc gia Y ra ngoài. Chiến tranh, mặc dù đầy rủi ro, luôn là một xu hướng tiềm ẩn trong quan hệ giữa các quốc gia, vốn được phân chia thành các giai đoạn hòa bình, cũng như các liên minh và liên kết luôn thay đổi giữa các quốc gia.
Chúng ta đã thấy rằng nỗ lực “nội bộ” hay “trong nước” nhằm giới hạn quyền lực của nhà nước trong các thế kỷ XVII đến XIX đạt được hình thức rõ nét nhất là chủ nghĩa hiến pháp. Ở khía cạnh “ngoại bộ” hay “đối ngoại,” đối trọng của nó là sự phát triển của “luật quốc tế,” đặc biệt là các hình thức như “luật chiến tranh” và “quyền lợi của các quốc gia trung lập.”(37) Một phần của luật quốc tế ban đầu mang tính chất hoàn toàn tư nhân, phát sinh từ nhu cầu của các thương nhân và nhà buôn trong việc bảo vệ tài sản và giải quyết tranh chấp. Ví dụ có thể kể đến là luật hàng hải và luật thương mại. Tuy nhiên, ngay cả các quy định của chính phủ cũng ra đời một cách tự nguyện và không bị áp đặt bởi bất kỳ một siêu quốc gia nào. Mục đích của “luật chiến tranh” là giới hạn sự tàn phá giữa các quốc gia, chỉ nhắm vào bộ máy nhà nước, qua đó bảo vệ công dân “dân sự” vô tội khỏi sự tàn sát và hủy diệt do chiến tranh gây ra. Mục đích của việc phát triển quyền lợi của các quốc gia trung lập là bảo vệ thương mại quốc tế của các công dân dân sự, ngay cả với các quốc gia “thù địch,” khỏi bị chiếm đoạt bởi một trong các bên tham chiến. Mục tiêu tối thượng là giới hạn phạm vi của mỗi cuộc chiến tranh, đặc biệt là để hạn chế mức độ tàn phá đối với công dân tư nhân của cả các quốc gia trung lập lẫn các quốc gia tham chiến.
Nhà luật học F.J.P. Veale đã mô tả một cách duyên dáng về “chiến tranh văn minh” khi nó từng nở rộ một thời gian ngắn ở Ý vào thế kỷ XV như sau:
Các thương gia và tầng lớp quý tộc giàu có ở Ý thời trung cổ quá bận rộn kiếm tiền và tận hưởng cuộc sống đến mức không thể tự mình trải qua những khó khăn và nguy hiểm của việc làm lính. Vì vậy, họ đã áp dụng phương pháp thuê lính đánh thuê để chiến đấu thay cho mình, và với tính cách tiết kiệm, thực dụng, họ thường sa thải các lính đánh thuê ngay khi không còn cần đến họ nữa. Do đó, chiến tranh được tiến hành bởi các đội quân thuê mướn cho mỗi chiến dịch… Lần đầu tiên, nghề lính trở thành một nghề hợp lý và tương đối ít nguy hiểm. Các tướng lĩnh thời kỳ đó thường đối đầu với nhau, đôi khi với kỹ năng xuất sắc, nhưng khi một người chiếm được lợi thế, đối thủ của họ thường sẽ rút lui hoặc đầu hàng. Có một quy tắc được công nhận rằng một thành phố chỉ có thể bị cướp bóc nếu nó kháng cự: sự miễn trừ có thể được mua bằng cách trả tiền chuộc… Một hệ quả tự nhiên là không thành phố nào kháng cự, vì rõ ràng rằng một chính phủ quá yếu để bảo vệ công dân của mình đã đánh mất sự trung thành của họ. Người dân thường không phải lo lắng về những nguy hiểm của chiến tranh, vì đó là mối quan tâm của những người lính chuyên nghiệp.(38)
Sự tách biệt gần như tuyệt đối giữa công dân tư nhân và các cuộc chiến tranh của nhà nước ở châu Âu thế kỷ 18 được Nef nhấn mạnh:
Ngay cả các liên lạc bưu chính cũng không bị hạn chế lâu dài trong thời gian chiến tranh. Những bức thư được lưu thông mà không có sự kiểm duyệt, với một mức độ tự do mà người ta khó lòng tưởng tượng được trong thế kỷ XX… Công dân của hai quốc gia đối địch vẫn trò chuyện với nhau khi gặp mặt, và khi không thể gặp, họ trao đổi thư từ, không phải như kẻ thù mà như những người bạn. Khái niệm hiện đại rằng… công dân của bất kỳ quốc gia thù địch nào cũng phải chịu một phần trách nhiệm đối với các hành động chiến tranh của các nhà cầm quyền của mình hầu như không tồn tại. Các nhà cầm quyền của các quốc gia đối địch cũng không có thái độ kiên quyết ngừng liên lạc với các công dân của kẻ thù.
Những thực hành thẩm vấn cổ xưa liên quan đến gián điệp trong vấn đề tôn giáo đang dần biến mất, và không có bất kỳ cuộc thẩm vấn nào tương tự liên quan đến các giao tiếp chính trị hay kinh tế được xem xét. Hộ chiếu ban đầu được tạo ra để bảo đảm sự an toàn trong thời chiến. Trong phần lớn thế kỷ XVIII, người châu Âu hiếm khi nghĩ đến việc phải huỷ bỏ các chuyến đi đến các quốc gia nước ngoài chỉ vì quốc gia họ đang tham chiến ở đây.(39)
Và thương mại ngày càng được công nhận là có lợi cho cả hai bên; chiến tranh thế kỷ 18 cũng làm giảm đáng kể tình trạng “thương mại với kẻ thù.”(40)
Mức độ mà các quốc gia đã vượt qua các quy tắc của chiến tranh văn minh trong thế kỷ này không cần phải bàn cãi thêm ở đây. Trong kỷ nguyên chiến tranh tổng lực hiện đại, cộng với công nghệ hủy diệt hoàn toàn, ngay cả khái niệm chiến tranh giới hạn chỉ trong các cơ quan nhà nước cũng trở nên lạc hậu và lỗi thời hơn cả bản Hiến pháp ban đầu của Hoa Kỳ.
Khi các quốc gia không đang trong chiến tranh, các thỏa thuận thường là cần thiết để giảm thiểu căng thẳng đến mức thấp nhất. Một học thuyết đã được chấp nhận rộng rãi một cách kỳ lạ là cái gọi là “thánh thiêng của các hiệp ước.”
Khái niệm này thường được coi là tương đương với “thánh thiêng của hợp đồng.” Tuy nhiên, hiệp ước và hợp đồng thực sự không có gì chung. Một hợp đồng, rõ ràng, chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản tư nhân. Vì một chính phủ không “sở hữu” lãnh thổ của mình theo nghĩa chính xác, nên bất kỳ thỏa thuận nào mà nó ký kết cũng không chuyển nhượng quyền sở hữu tài sản.
Ví dụ, nếu ông Jones bán hoặc cho ông Smith một mảnh đất, người thừa kế của Jones sẽ không thể hợp pháp đến và yêu cầu người thừa kế của Smith trả lại mảnh đất như một quyền hợp pháp của mình.
Quyền sở hữu đã được chuyển nhượng. Hợp đồng của ông Jones cũ tự động ràng buộc ông Jones trẻ, bởi vì người trước đã chuyển nhượng tài sản; do đó, ông Jones trẻ không có quyền yêu cầu tài sản đó.
Ông Jones trẻ chỉ có thể yêu cầu những gì mình thừa kế từ ông Jones cũ, và ông Jones cũ chỉ có thể để lại tài sản mà ông vẫn còn sở hữu.
Nhưng nếu vào một thời điểm nhất định, chính phủ của Ruritania bị ép buộc hoặc thậm chí bị hối lộ bởi chính phủ Waldavia để nhượng lại một phần lãnh thổ của mình, thì thật vô lý khi nói rằng các chính phủ hoặc người dân của hai quốc gia đó sẽ mãi mãi bị ngăn cản không được yêu cầu tái thống nhất Ruritania dựa trên lý thuyết “thánh thiêng của hiệp ước.”
Cả người dân lẫn lãnh thổ của khu vực Tây Bắc Ruritania đều không thuộc quyền sở hữu của hai chính phủ đó. Do đó, một chính phủ chắc chắn không thể ràng buộc một chính phủ cai quản sau này bằng một hiệp ước — điều mà người ta thường gọi là ràng buộc bằng “bàn tay đã chết” của quá khứ bởi kẻ cầm quyền trước đây đã không còn.
Một chính phủ cách mạng lật đổ vua của Ruritania cũng không thể bị buộc phải chịu trách nhiệm về hành động hay các khoản nợ của vua, vì một chính phủ không phải như một đứa trẻ và vì vậy nó không phải là “người thừa kế” thực sự tài sản của chính quyền tiền nhiệm.
Chú thích:
(37) Điều này cần được phân biệt với luật pháp quốc tế hiện đại, với sự nhấn mạnh vào việc mở rộng phạm vi chiến tranh thông qua các khái niệm như “an ninh tập thể.”
(38) F.J.P. Veale, Advance to Barbarism (Appleton, Wis.: C.C. Nelson, 1953), tr. 63. Tương tự, Giáo sư Nef viết về cuộc Chiến tranh Don Carlos diễn ra ở Ý giữa Pháp, Tây Ban Nha và Sardinia chống lại Áo vào thế kỷ 18: tại cuộc vây hãm Milan bởi liên quân và vài tuần sau đó tại Parma… các đội quân đối địch đã gặp nhau trong một trận chiến ác liệt bên ngoài thành phố. Ở cả hai nơi, cảm tình của cư dân không bị lay chuyển nghiêm trọng bởi phe nào. Nỗi sợ duy nhất của họ là quân đội của bất kỳ phe nào cũng có thể xâm nhập vào trong thành và cướp bóc. Tuy nhiên, nỗi sợ này đã không trở thành hiện thực. Tại Parma, người dân chạy lên tường thành để xem trận chiến ngoài đồng quê phía xa. (John U. Nef, War and Human Progress [Cambridge, Mass.: Harvard University Press, 1950], tr. 158. Cũng xem thêm Hoffman Nickerson, Can We Limit War? [New York: Frederick A. Stokes, 1934])
(39) Nef, War and Human Progress, tr. 162.
(40) Như trên, tr. 161. Về việc ủng hộ thương mại với kẻ thù của các lãnh đạo Cách mạng Mỹ, xem Joseph Dorfman, The Economic Mind in American Civilization (New York: Viking Press, 1946), tập 1, tr. 210-211.
Nguồn: Murray N. Rothbard, “Anatomy of State,” Mises Institute, 2009.
Biên dịch: Phong trào Duy Tân.