Cách nghĩ về nền kinh tế: Một hướng dẫn cơ bản (Chương 6)

Tác giả: Per L. Bylund. 

Chương 6: Giá trị, Tiền tệ và Giá cả.

Cho đến nay, cuộc thảo luận của chúng ta về nền kinh tế hoàn toàn dựa trên quan điểm về giá trị. Giá trị là mục tiêu tối thượng của hành động và động lực thúc đẩy hành vi của chúng ta. Giá trị mang tính cá nhân—chủ quan—nghĩa là nó xuất phát từ việc thỏa mãn một nhu cầu. Nếu chúng ta đói, chúng ta ăn; nếu chúng ta cảm thấy cô đơn, chúng ta có thể đi thăm một người bạn.

Giá trị là việc loại bỏ hoặc đáp ứng một sự khó chịu nào đó (đói hoặc cô đơn), giúp chúng ta cảm thấy tốt hơn. Chúng ta có thể so sánh sự hài lòng, chẳng hạn như thích cam hơn táo và thích lê hơn cả hai. Việc so sánh giá trị đơn giản dưới góc độ sự hài lòng cá nhân là không có vấn đề gì. Nếu vừa đói vừa khát, chúng ta có thể nhanh chóng quyết định nên loại bỏ sự khó chịu nào trước bằng cách xem xét mức độ cấp bách của từng cảm giác. Tuy nhiên, mặc dù có thể so sánh và xác định sự hài lòng nào lớn hơn, giá trị lại không có đơn vị đo lường.

VẤN ĐỀ ĐO LƯỜNG GIÁ TRỊ 

Chúng ta không thể đo lường mức độ mà chúng ta đã giảm bớt sự lo lắng thông qua việc thực hiện một hành động nhất định. Sự hài lòng mà điều này mang lại là một cảm giác mà chúng ta trải nghiệm, không có đơn vị hay thước đo chính xác.

Chúng ta không thể nói rằng mình thích cam hơn táo 2,5 lần và thích lê hơn cam 1,3 lần. Chúng ta cũng không thể so sánh giá trị chủ quan của những người khác nhau, vì sự hài lòng mà họ trải nghiệm mang tính cá nhân. Thật vô lý nếu nói rằng Adam thích lê hơn Beth 20%. Có lẽ Adam nói rằng anh ấy “rất thích” lê, trong khi Beth lại chẳng hứng thú chút nào. Nếu đó là cảm nhận thực sự, Beth có thể đưa quả lê của mình cho Adam. 

Nhưng điều này vẫn không phải là thước đo giá trị của họ đối với lê, cũng như không phải là sự so sánh dựa trên một đơn vị hài lòng chung nào đó. Beth coi trọng việc đưa lê cho Adam, có lẽ vì tình cảm dành cho Adam rất sâu đậm và cô biết anh thích lê. Nhưng điều này không nói lên bất kỳ điều gì về mức độ Beth—hay Adam—đánh giá việc giữ hay cho đi quả lê.

Sự thiếu vắng thước đo khiến giá trị trở thành vấn đề trong bối cảnh xã hội—đặc biệt là trong các nền kinh tế phát triển với các quy trình sản xuất dài và chuyên môn hóa (chúng ta sẽ thảo luận trong chương 7). Làm thế nào để chúng ta tối ưu hóa nguồn tài nguyên khan hiếm nhằm đạt được giá trị lớn nhất có thể?

Để minh họa, hãy tưởng tượng một xã hội nhỏ gồm 150 người, nơi có đủ nước để làm dịu cơn khát của 45 người và đủ thức ăn để thỏa mãn 30 người. Làm thế nào để xác định 45 người “khát nhất” và 30 người “đói nhất”?

Xã hội này có thể quyết định sử dụng nước và thực phẩm để đầu tư vào sản xuất, điều này có thể cho phép họ tạo ra nhiều giá trị hơn nữa. Nếu mười người được cung cấp đủ nước và thực phẩm để sống trong ba ngày, họ có thể đi lấy thêm nước và thực phẩm mang về cho những người khác. Xã hội này có nên thực hiện khoản đầu tư này không? Họ nên cử một nhóm mười người hay hai nhóm năm người đi theo các hướng khác nhau để tìm kiếm? Họ nên chọn ai để thu thập nước và thực phẩm mới thu được? Ai trong số những người còn lại nên nhận phần nước và thực phẩm còn sót lại? Những so sánh này đòi hỏi một cách đo lường giá trị, nhưng vì giá trị là trải nghiệm cá nhân, không có thước đo nào phù hợp. Không có giải pháp nào cho vấn đề tối ưu hóa này.

Thị trường giải quyết câu đố này bằng cách sử dụng tiền và giá cả, cung cấp các định giá tương đối mang tính khách quan trong xã hội (sẽ được thảo luận chi tiết hơn bên dưới), từ đó cho phép so sánh và tối ưu hóa dựa trên các hàng hóa có giá trị. Nếu lê có giá gấp 1,3 lần cam, chúng ta có thể dễ dàng quyết định cách sử dụng sức mua của mình để đạt được sự hài lòng lớn nhất: mua lê, mua cam, hoặc mua một sự kết hợp giữa cả hai. Chúng ta có thể đưa ra các so sánh như vậy cả ở cấp độ cá nhân và tập thể. Như chúng ta sẽ thấy, tiền và giá cả là không thể thiếu đối với một nền kinh tế. Chúng ta không thể vận hành nếu thiếu chúng.

VIỆC SỬ DỤNG TIỀN 

Chúng ta thường coi tiền và giá cả là điều hiển nhiên. Chúng phổ biến đến mức hầu hết mọi người nghĩ rằng tiền là thước đo giá trị. Thậm chí, nhiều người còn đánh đồng giá trị với tiền. Đây là một sai lầm.

Tiền là phương tiện trao đổi thông dụng, và nó có giá trị với chúng ta vì chức năng này. Chúng ta coi trọng tiền giống như các hàng hóa khác, bởi vì những gì nó có thể làm cho chúng ta. Nhưng không phải bản thân những tờ tiền hay đồng xu mang lại giá trị cho chúng ta, mà là kỳ vọng rằng chúng ta có thể sử dụng chúng để mua những gì mình muốn. Điều này có nghĩa là tiền hoạt động vì chúng ta công nhận nó như vậy và do đó chấp nhận nó trong các giao dịch. Tiền có sức mua. Chính niềm tin rằng tiền có thể mua được hàng hóa làm cho nó có giá trị. Nếu chúng ta tin rằng không thể sử dụng tiền để mua hàng hóa—có thể vì chúng ta nghĩ rằng người khác sẽ không chấp nhận nó—thì chúng ta cũng sẽ không chấp nhận nó.

Điều này có nghĩa là tiền là tiền vì mọi người coi nó là tiền. Theo cách này, tiền là một thiết chế xã hội chủ yếu tự củng cố. Tất cả chúng ta đều có kinh nghiệm sử dụng tiền và do đó hiểu phần nào ý nghĩa của việc một thứ gì đó trở thành tiền. Nhưng điều này không giải thích được tiền là gì, tại sao nó tồn tại, hay nó xuất hiện như thế nào.

Hãy nghĩ xem điều gì sẽ khiến bạn chấp nhận một thứ gì đó là tiền. Hoặc, để đi đến vấn đề cốt lõi: điều gì sẽ khiến một xã hội không sử dụng tiền chấp nhận một thứ gì đó là tiền. Vì giá trị của tiền phụ thuộc vào việc người khác chấp nhận nó để trao đổi, nên bất kỳ thứ gì muốn trở thành tiền đều không có giá trị như tiền ngay từ đầu. Chỉ sau khi một thứ đã được chấp nhận rộng rãi trong giao dịch thì nó mới được công nhận là tiền—nhưng không phải trước đó.

Điều này dẫn đến quan điểm cho rằng tiền phải được áp đặt từ trên xuống thông qua sắc lệnh để sử dụng trong các giao dịch. Ý tưởng này cho rằng một người đứng đầu nhà nước đã phát minh ra khái niệm tiền và giới thiệu nó nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thương mại (hoặc có thể là việc nộp thuế). Nhưng “lời giải thích” này bỏ lỡ một điểm quan trọng: trừ khi một thứ đã là tiền, mọi người sẽ không tự nguyện chấp nhận nó trong các giao dịch. Vì vậy, nó không hoặc ít có giá trị trước khi được coi là tiền.

Một sắc lệnh không tạo ra tiền—nó chỉ tạo ra một nghĩa vụ, và nghĩa vụ này bị giới hạn bởi phạm vi thực thi. Tuy nhiên, hoàn toàn có thể hình dung rằng một chính phủ có thể, dần dần, tiếp quản và độc quyền hóa một loại tiền đã tồn tại, điều mà chúng ta đã từng chứng kiến. Hầu hết các loại tiền tệ ngày nay đều là tiền độc quyền của chính phủ, nhưng đó không phải là cách tiền được phát minh hay được chấp nhận làm phương tiện trao đổi—đó chỉ là kết quả cuối cùng. Chức năng kinh tế của tiền không thể đơn giản được tạo ra từ trên xuống.

Con người lựa chọn trao đổi hàng hóa vì lợi ích của chính họ, điều này có nghĩa là trao đổi tự nguyện phải mang lại lợi ích cho cả hai bên. Cả hai đều kỳ vọng sẽ được lợi hơn, nếu không họ sẽ không chọn trao đổi. Một nghĩa vụ phải chấp nhận thứ gì đó không có giá trị trực tiếp đối với họ—chẳng hạn như một loại tiền tệ bị áp đặt nhưng chưa được công nhận là tiền—sẽ làm giảm sự sẵn sàng giao dịch của mọi người. Rốt cuộc, nếu bạn buộc phải chấp nhận đá để “thanh toán” cho tài sản của mình, thì có lẽ bạn sẽ ngần ngại không muốn đem chúng ra bán. Ngay cả khi tôi đưa cho bạn một tấn đá, bạn cũng sẽ không đổi nhà hoặc xe của mình lấy chúng. Tại sao lại đổi một hàng hóa có giá trị lấy thứ mà bạn không muốn? Vì vậy, ngay cả khi bạn bị yêu cầu phải nộp thuế bằng đá, bạn cũng sẽ chỉ giới hạn giao dịch với đá để thực hiện nghĩa vụ đó—chứ không hơn. Thị trường trao đổi hàng hóa lấy đá sẽ rất hạn chế.

Những trao đổi như vậy chỉ xảy ra một cách tự nguyện nếu khoản thanh toán được đưa ra thực sự là tiền. Trong một xã hội không có tiền, con người không chỉ thiếu niềm tin vào sức mua của tiền—họ còn không có khái niệm về nó. Hãy tưởng tượng bạn đưa một xấp tiền đô la hoặc một đồng xu vàng cho một người từ thời kỳ đồ đá để đổi lấy rìu hoặc thức ăn của họ.

SỰ XUẤT HIỆN CỦA TIỀN

Tiền là một khái niệm kinh tế. Bản thân tờ đô la không phải là tiền, nhưng tiền có thể tồn tại dưới dạng tờ đô la. Tuy nhiên, những tờ tiền đó chỉ được coi là tiền khi và chỉ khi chúng được chấp nhận như là tiền. Điều này trở nên rõ ràng khi chúng ta đi du lịch đến các quốc gia khác, bởi vì những gì là tiền ở một quốc gia có thể không được chấp nhận là tiền ở quốc gia khác. Bạn không thể sử dụng đồng krona Thụy Điển để thanh toán ở Áo hay Hoa Kỳ, mặc dù mọi người ở Thụy Điển đều coi đó là tiền.

Chúng ta biết rất ít về nguồn gốc lịch sử của tiền, nhưng khái niệm này rất rõ ràng. Nhà kinh tế học Carl Menger đã chỉ ra cách một nền kinh tế trao đổi hàng hóa có thể chuyển đổi thành một nền kinh tế tiền tệ. Lời giải thích của Menger không cần một nhà hoạch định trung ương hay sắc lệnh nào cả—tiền xuất hiện. Điều này rất quan trọng vì nó cung cấp cái nhìn sâu sắc về ý nghĩa và vai trò của tiền như một khái niệm kinh tế.

Trong một nền kinh tế trao đổi hàng hóa, con người trao đổi hàng hóa lấy hàng hóa. Nền kinh tế này gặp phải những hạn chế rõ ràng, bởi vì mỗi lần trao đổi đòi hỏi cả hai bên phải nhận được thứ họ muốn với số lượng mà họ muốn, mà không sử dụng bất kỳ thứ gì được gọi là tiền. Nói cách khác, một người bán trứng và muốn mua bơ cần phải tìm được ai đó đang bán bơ và muốn đổi lấy trứng. Điều này hạn chế rất nhiều số lượng đối tác giao dịch tiềm năng.

Vì hàng hóa khác nhau về độ bền và kích thước, các nền kinh tế trao đổi hàng hóa không thể phát triển thành các nền kinh tế sản xuất với sự phân công lao động. Hãy tưởng tượng một người đóng thuyền muốn bán chiếc thuyền cao tốc mới thiết kế của mình. Ngay cả khi anh ta muốn trứng, anh ta cũng khó lòng chấp nhận hàng ngàn quả trứng để đổi lấy chiếc thuyền—chúng sẽ nhanh chóng bị hỏng và trở nên vô dụng trong một thời gian ngắn. Vì vậy, anh ta cần phải tìm được ai đó cung cấp chính xác số hàng hóa mà anh ta muốn và sẵn sàng bán để đổi lấy chiếc thuyền. Cả hai bên cũng cần phải đồng ý về tỷ lệ trao đổi: Cần bao nhiêu quả trứng để đổi lấy chiếc thuyền?

Con người trao đổi hàng hóa để trở nên tốt hơn, nghĩa là họ trao đổi vì giá trị. Carl Menger lưu ý rằng con người sẽ tìm mọi cách để vượt qua những hạn chế của hình thức hàng đổi hàng. Nếu người nông dân nuôi bò sữa không chấp nhận trứng của tôi để đổi lấy bơ, nhưng tôi biết ông ấy sẽ chấp nhận bánh mì, thì tôi có thể tiếp cận người thợ làm bánh để đổi trứng lấy bánh mì—và nếu người thợ làm bánh đồng ý, tôi có thể sau đó dùng bánh mì để đổi lấy bơ. Nói cách khác, tôi đổi trứng lấy bánh mì không phải vì tôi muốn bánh mì, mà vì tôi muốn dùng bánh mì để có được bơ. Lần trao đổi đầu tiên của tôi tạo điều kiệu cho lần trao đổi thứ hai, từ đó tôi được hưởng lợi trực tiếp.

Nếu tôi muốn có quả mọng, chẳng hạn, tôi cũng sẽ phải làm theo quy trình tương tự nếu người bán quả mọng không muốn trứng của tôi nhưng sẵn sàng chấp nhận thứ khác. Tôi sẽ bán trứng để lấy thứ đó rồi dùng nó để đổi lấy quả mọng. Dù trứng có thể được chấp nhận trong một số trường hợp, nhưng không phải lúc nào cũng vậy. Nhưng giả sử một số người sẵn sàng chấp nhận cùng một loại hàng hóa khác để đổi lấy bánh mì. Biết được điều này, tôi có thể đổi trứng lấy bánh mì chỉ vì tin rằng bánh mì sẽ hữu ích hơn khi tôi đi mua sắm lần tới. Theo cách diễn đạt của Menger, tôi bán trứng để có được một loại hàng hóa dễ bán hơn, với mục đích duy nhất là sử dụng nó để giao dịch; đối với tôi, nó chỉ đóng vai trò gián tiếp trong việc tạo điều kiện cho các giao dịch thực sự. Vì vậy, việc tôi mua bánh mì vẫn có ý nghĩa ngay cả khi tôi không thích nó—và ngay cả khi tôi bị dị ứng với nó.

Khi con người trao đổi sản phẩm của mình để lấy những hàng hóa dễ bán hơn, các hàng hóa này trở nên được săn đón hơn vì chúng có thể được dùng để mua nhiều loại hàng hóa khác. Và khi ngày càng nhiều người nhận ra mức độ hữu ích của chúng trong vai trò trung gian trao đổi, họ bắt đầu bán hàng hóa của mình (tôi bán trứng, người nông dân nuôi bò sữa bán bơ, v.v.) để lấy những hàng hóa dễ bán hơn. Cuối cùng, thông qua hành vi của con người chứ không phải do thiết kế có chủ đích, một hoặc một vài loại hàng hóa trở thành phương tiện trao đổi thông dụng—tiền. Chúng được coi trọng chủ yếu vì vai trò là phương tiện trao đổi, chứ không phải vì bản thân chúng là hàng hóa.

TẦM QUAN TRỌNG CỦA TIỀN 

Trong một nền kinh tế tiền tệ, chúng ta sử dụng tiền để thanh toán cho hàng hóa và có thể dễ dàng so sánh giá cả vì tất cả đều được thể hiện bằng cùng một đơn vị—một loại tiền tệ. Nhưng, như chúng ta đã thấy trong các chương trước, giá cả thực chất là tỷ lệ trao đổi. Tiền đóng vai trò là trung gian tạo điều kiện cho giao thương, giúp chúng ta vượt qua những hạn chế của giao dịch hàng đổi hàng.

Sự tồn tại của tiền làm tách rời việc mua và bán của con người dưới dạng hàng hóa. Nó tạo ra sức mua phổ quát từ giá trị trao đổi của hàng hóa. Nói cách khác, tôi có thể bán hàng hóa hoặc dịch vụ của mình cho một người nhưng sử dụng sức mua nhận được (dưới dạng tiền) để mua hàng hóa hoặc dịch vụ từ người khác. Điều này có vẻ hiển nhiên vì chúng ta đã quen với nó. Tuy nhiên, ý nghĩa của nó rất lớn.

Trong giao dịch hàng đổi hàng, việc làm chỉ có thể xảy ra khi người sử dụng lao động có thể cung cấp các hàng hóa cụ thể mà người lao động chấp nhận làm tiền công. Hãy tưởng tượng rằng người sử dụng lao động của bạn trả công không bằng tiền mà bằng các vật phẩm cụ thể: quần áo, sản phẩm vệ sinh, sách, du lịch, đồ nội thất, v.v. Dễ dàng thấy rằng việc tìm được một người sử dụng lao động cung cấp gói hàng hóa phù hợp nhất là gần như không thể. Điều đó có thể có nghĩa là bạn sẽ phải chấp nhận một gói hàng hóa không hoàn hảo để có được việc làm. Sẽ tiện lợi hơn cho bạn rất nhiều nếu bạn nhận được giá trị trao đổi của những hàng hóa đó—sức mua (tiền)—và sử dụng nó để mua những hàng hóa bạn thích.

Tiền do đó không chỉ là một tiện ích—nó là điều cần thiết để các giao dịch diễn ra và cho các quy trình sản xuất chuyên biệt, tiên tiến mà chúng ta coi là hiển nhiên trong nền kinh tế hiện đại. Sản xuất quy mô lớn, chuỗi cung ứng, và chuyên môn hóa đều trở nên khả thi vì tiền tách rời các nỗ lực của chúng ta với vai trò vừa là người mua vừa là người bán. Nhờ sự tách rời này, chúng ta cũng có thể chuyên môn hóa vào những gì chúng ta làm tốt, thay vì chỉ sản xuất những gì bản thân muốn tiêu dùng. Kết quả là, chúng ta có thể tập trung nỗ lực sản xuất vào nơi mà chúng ta tạo ra sự khác biệt lớn nhất—nơi chúng ta tạo ra nhiều giá trị nhất cho xã hội. Nếu không có tiền, chúng ta sẽ không thể đạt được mức năng suất cao như vậy.

Sự tách rời này cũng có nghĩa là chúng ta có thể sử dụng sức mua kiếm được của mình—những gì chúng ta được trả cho việc sản xuất—vào những gì mà chúng ta thấy có giá trị nhất. Tiền giúp chúng ta có thể theo đuổi những nhu cầu mà nếu chỉ dựa vào trao đổi hàng hóa sẽ không bao giờ đạt được. Kết quả của việc có và sử dụng tiền không chỉ là cải thiện đáng kể sản xuất mà còn giúp chúng ta theo đuổi tiêu dùng có giá trị hơn. Sản xuất tạo điều kiện và tăng cơ hội cho tiêu dùng. Và càng tạo ra nhiều giá trị, chúng ta càng được trả nhiều sức mua hơn.

Vì tất cả các chủ thể trong nền kinh tế tiền tệ đều có thể theo đuổi những hàng hóa mà họ coi trọng nhất—và có thể sản xuất những hàng hóa mà người khác đánh giá cao—tổng giá trị tạo ra sẽ lớn hơn. Chúng ta sống tốt hơn rất nhiều trong một nền kinh tế tiền tệ so với một nền kinh tế trao đổi hàng hóa.

GIÁ TIỀN

Tiền giúp giá cả dễ dàng so sánh hơn. Thay vì thể hiện giá cả dưới dạng tỷ lệ—nơi mỗi loại hàng hóa được “định giá” dựa trên các loại hàng hóa khác—chúng được biểu thị bằng tiền.

Trong một nền kinh tế hàng đổi hàng, việc tôi mua bánh mì bằng trứng để mua bơ đòi hỏi ba bên phải thiết lập các tỷ lệ trao đổi. Tôi có thể đổi một tá trứng lấy ba lát bánh mì từ thợ làm bánh. Trong giao dịch này, giá của một lát bánh mì là bốn quả trứng, và giá của một quả trứng là một phần tư lát bánh mì. Sau đó, tôi có thể dùng bánh mì để mua một cân bơ với giá hai lát bánh mì, tức là giá của một cân bơ bằng hai lát bánh mì và giá của một lát bánh mì bằng nửa cân bơ.

Tôi tham gia vào cả hai giao dịch và có thể suy ra rằng “giá” của một cân bơ là tám quả trứng. Tuy nhiên, đây là một sự đơn giản hóa vì người nông dân nuôi bò sữa không chấp nhận trứng để trao đổi. Vấn đề là giá của tất cả hàng hóa ở đây được thể hiện dưới dạng tỷ lệ so sánh với các hàng hóa khác. Ví dụ, nếu người nông dân nuôi bò sữa cũng chấp nhận tám cốc quả mọng để đổi lấy một cân bơ, thì giá của một cân bơ sẽ là hai lát bánh mì hoặc tám cốc quả mọng. Những tỷ lệ như vậy (giá hiện vật) có thể được thiết lập cho tất cả các kết hợp hàng hóa trong mọi giao dịch có thể xảy ra. Nhưng làm thế nào để so sánh chúng? Nếu không có một mẫu số chung, các mức giá này chỉ là những tỷ lệ trao đổi độc nhất, rất khó để sắp xếp hoặc hiểu rõ.

Hãy giả định rằng bánh mì trở thành tiền trong ví dụ trên. Điều này có nghĩa là bánh mì, đóng vai trò là phương tiện trao đổi, trở thành một bên trong hầu hết mọi giao dịch. Nói cách khác, giá của tất cả các hàng hóa đều có thể được biểu thị bằng bánh mì—vì chúng được trao đổi lấy bánh mì. Vì vậy, tôi sẽ bán trứng để lấy bánh mì và dùng bánh mì để mua bơ và quả mọng. Khi bánh mì là mẫu số chung, tôi có thể dễ dàng so sánh giá cả và mua hàng hóa nào phù hợp nhất với nhu cầu của mình. Hiện nay, vì bánh mì là tiền, tất cả những người bán hàng hóa có khả năng chấp nhận nó làm phương thức thanh toán vì họ muốn sức mua, chứ không phải bản thân bánh mì.

Nếu một cân bơ có giá hai lát bánh mì và một lát bánh mì mua được hai cốc quả mọng, thì tôi có thể dễ dàng so sánh giá cả. Ba lát bánh mì mà tôi được trả cho một tá trứng có thể mua một cân rưỡi bơ, sáu cốc quả mọng, hoặc một sự kết hợp khác. Tất cả những gì tôi cần làm bây giờ là xác định lựa chọn nào tôi coi trọng nhất. Tôi có thể dễ dàng tính toán cách để nhận được giá trị lớn nhất cho mỗi lát bánh mì.

Trong nền kinh tế tiền tệ này, tất cả các hàng hóa đều được định giá bằng bánh mì, và bánh mì được định giá bằng tất cả các hàng hóa khác. Vì bánh mì là phương tiện trao đổi, ta có thể nói rằng sức mua của (một lát) bánh mì là nửa cân bơ, hai cốc quả mọng, bốn quả trứng, v.v. Kết quả là, mọi người trong xã hội dễ dàng hơn rất nhiều trong việc xác định liệu thứ gì đó có “đáng giá” hay không.

Một cách diễn đạt khác là chi phí cơ hội của việc mua hai cốc quả mọng cho một lát bánh mì chính là giá trị của bất kỳ thứ gì khác mà một người có thể mua với lát bánh mì đó: nửa cân bơ, bốn quả trứng, v.v. Hiển nhiên, chúng ta sẽ chọn mua những hàng hóa có sẵn mà ta kỳ vọng sẽ mang lại sự hài lòng lớn nhất. Vì ai cũng theo đuổi giá trị—và, nhờ có tiền, có thể so sánh giá cả một cách chính xác—hành động của chúng ta tạo ra sự đấu giá ngầm cho các hàng hóa đã được sản xuất. Mức độ sẵn lòng và khả năng của chúng ta trong việc mua một hàng hóa ở một mức giá nhất định cấu thành nhu cầu của chúng ta.

Người trả giá cao nhất cho một mặt hàng sẽ nhận được nó trước và sẽ không phải chịu cảnh thiếu hụt. Những người trả giá thấp hơn sẽ được phục vụ sau cho đến khi người bán không còn coi số bánh mì được đưa ra là xứng đáng nữa. Càng nhiều người coi trọng một mặt hàng, giá thị trường của nó càng cao. Và càng có nhiều hàng hóa được bán ra, giá thị trường của nó càng thấp.

Tương tự, vì các nỗ lực mua và bán của chúng ta không còn bị ràng buộc, chúng ta có thể sản xuất những gì sẽ mang lại nhiều tiền nhất cho mình. Giờ đây, chúng ta có thể dùng công sức của mình vào nơi mà ta có kỹ năng và chuyên môn cao hơn, và nơi có thể mang lại thu nhập cao nhất bằng tiền. Điều này có nghĩa là, để mang lại lợi ích cho bản thân (thu nhập cao hơn), chúng ta chọn đóng góp vào nền kinh tế theo cách mà người tiêu dùng coi trọng nhất. Trong bối cảnh thị trường, sức mua mà chúng ta nhận được để đổi lấy dịch vụ của mình có xu hướng tỷ lệ thuận với giá trị mà chúng ta đóng góp cho thị trường theo giá tiền.

Kết quả là, thị trường tự do cung cấp cho những người đóng góp nhiều giá trị nhất trong sản xuất sức mua lớn nhất, điều này có nghĩa là họ cũng có khả năng lớn hơn để thỏa mãn nhu cầu của chính mình bằng cách mua những hàng hóa và dịch vụ mà họ ưa thích. Sức mua—và do đó, sức tiêu dùng— cũng là mức độ mà con người có thể thỏa mãn nhu cầu của mình thông qua hàng hóa—do đó phản ánh sự đóng góp của một người vào nền kinh tế (với tư cách là nhà sản xuất). Nói một cách đơn giản, những gì chúng ta cung cấp sẽ cấu thành khả năng cầu của chúng ta.

TIỀN PHÁP ĐỊNH VÀ LẠM PHÁT GIÁ CẢ 

Thảo luận ở trên đã giải thích khái niệm kinh tế về tiền như là tiền hàng hóa. Trong lịch sử, các vật khác nhau đã từng được sử dụng làm tiền ở các xã hội khác nhau: đá, vỏ sò, gia súc, v.v. Ở châu Âu và nhiều nơi khác, vàng và bạc đã trở thành tiền tệ phổ biến mang tính quốc tế.

Tiền giấy mà chúng ta sử dụng ngày nay là một sự phát triển từ tiền xu kim loại quý và hệ thống ngân hàng. Quá trình diễn ra như sau: Các ngân hàng cung cấp không gian trong két của họ để giữ tiền của khách hàng một cách an toàn. Tiền có thể thay thế được, nghĩa là không có vấn đề gì nếu bạn có nhận lại được cùng một đồng tiền vàng hoặc bạc khác từ ngân hàng mà bạn gửi tiền hay không, do đó, ngân hàng có thể giữ tất cả tiền xu của khách hàng trong cùng một két và phát hành biên lai cho số tiền mà mỗi khách hàng đã gửi. Vì những biên lai này có thể đổi thành tiền xu, mọi người có thể sử dụng chúng để trao đổi trực tiếp thay vì phải đến ngân hàng trước. Những người nhận được biên lai có thể gửi nó vào ngân hàng của mình, và ngân hàng này sẽ yêu cầu thanh toán từ ngân hàng đã phát hành biên lai. Theo định kỳ, các ngân hàng sẽ thanh toán các khoản nợ lẫn nhau bằng cách vận chuyển số vàng và bạc còn thiếu, giúp mọi người tránh được rất nhiều rắc rối.

Thực hành này có nhược điểm: nó tạo ra động lực để các ngân hàng phát hành nhiều biên lai hơn số tiền trong két của họ. Vì không phải tất cả biên lai đều được đổi cùng một lúc và tiền có thể thay thế được, thực hành này có thể mang lại cho các ngân hàng sức mua không xứng đáng.

Trong một hệ thống ngân hàng tự do, sự lạm dụng này có thể được giữ ở mức thấp hơn. Một ngân hàng chỉ có thể phát hành các biên lai “tiền mặt” bổ sung này miễn là hành vi này không bị phát hiện và ngân hàng vẫn duy trì được uy tín của mình. Nhưng ngay khi những người giữ biên lai không chắc chắn liệu ngân hàng có đủ tiền trong két hay không—liệu ngân hàng có mất khả năng thanh toán—họ sẽ tìm cách quy đổi biên lai của mình. Lịch sử có nhiều ví dụ về các ngân hàng mất uy tín, dẫn đến việc khách hàng của họ đổ xô đi rút tiền, gây ra tình trạng rút tiền hàng loạt. Nếu ngân hàng đã phát hành nhiều biên lai hơn số tiền có thể quy đổi, thì tình trạng này sẽ khiến ngân hàng phá sản.

Việc ngân hàng mất khả năng thanh toán do phát hành quá nhiều tiền giấy cũng có thể được phát hiện trong quá trình thanh toán bù trừ các khoản nợ của ngân hàng. Một trung tâm đối chiếu sẽ xác định số dư của các ngân hàng và tính toán số tiền cần được chuyển từ ngân hàng này sang ngân hàng khác để cân bằng các tài khoản. Nếu một ngân hàng phát hành quá nhiều tiền giấy, điều này sẽ được phát hiện trong quá trình đối chiếu giao dịch vì các ngân hàng khác có biên lai từ ngân hàng đó và yêu cầu ngân hàng này chuyển tiền thật cho họ—số tiền mà ngân hàng này có thể không có. Vì vậy, việc phát hành quá quá nhiều biên lai giấy có thể bị phát hiện cả bởi khách hàng và các ngân hàng cạnh tranh. Rủi ro bị phát hiện, đồng nghĩa với phá sản, là rất lớn.

Trong thời hiện đại, hầu hết các loại tiền tệ đều là tiền độc quyền quốc gia do ngân hàng trung ương của chính phủ phát hành và không có tài sản bảo chứng như các biên lai trong ví dụ trên. Diễn biến này được giải thích một phần là do nỗ lực của chính phủ nhằm giải quyết vấn đề rút tiền hàng loạt khỏi ngân hàng, và một phần là do mong muốn khai thác quyền lực từ việc phát hành tiền. Là nhà phát hành tiền độc quyền, chính phủ/ngân hàng trung ương có thể tự cung cấp sức mua mà không phải trả bất kỳ chi phí nào.

Tuy nhiên, như đã thấy ở trên, sức mua của tiền được thể hiện qua mối quan hệ giữa tiền và hàng hóa có sẵn. Khi tiền mới được sử dụng để mua hàng hóa trên thị trường, giá cả sẽ bị đẩy lên cao hơn so với mức thông thường vì có nhiều tiền lưu thông hơn. Khi điều này xảy ra, ta sẽ thấy giá cả tăng chung, nhưng không đồng đều, khi tiền mới đi vào thị trường. Đây chính là lạm phát giá cả.

Tiền pháp định—được tạo ra bởi sự độc quyền hợp pháp của chính phủ đối với tiền tệ—thường có xu hướng gây ra lạm phát. Chính phủ có thể dễ dàng tạo ra sức mua cho mình bằng cách in tiền hơn là đánh thuế người dân. Tuy nhiên, hệ quả là sức mua của tiền giảm xuống, khiến người dân trở nên nghèo hơn tương đối và làm méo mó cấu trúc vốn (như đã thấy ở chương 3). Sự méo mó do tiền gây ra này phá hoại nền kinh tế, như chúng ta sẽ thấy trong chương tiếp theo, và cuối cùng dẫn đến chu kỳ bùng nổ và suy thoái (được thảo luận trong chương 8).

Biên dịch: Phong trào Duy Tân.


Đăng ngày

trong

,

Thẻ: